Nghiên cứu nuôi cấy Meristem cây tỏi

Rau xanh là món ăn không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của người Việt Nam. Màu xanh của lá, vị ngọt của rau không chỉ giúp chúng ta ngon miệng mà rau xanh còn là nguồn cung cấp chất khoáng, chất đạm và các loại vitamin cho cơ thể. Trong thế giới rau xanh phong phú đó có hằng trăm cây rau được dụng làm gia vị. Rau gia vị là những cây rau có mùi vị đặc biệt có thể làm cho các món ăn thơm hơn, ngon hơn. Rau gia vị còn là những vị thuốc nam có giá trị, sử dụng an toàn và tiện lợi. Một trong những loài rau gia vị đó phải kể đến cây tỏi. Tỏi là một loại rau được dùng làm thức ăn và thuốc từ những năm trước công nguyên trên các vùng nhiệt đới Trung Á, về sau được trồng rộng rãi ở Hi Lạp, Ai Cập và La Mã. Hiện nay tỏi được trồng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới. Có thể sử dụng cả lá và củ làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh cho con người.

doc42 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2657 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu nuôi cấy Meristem cây tỏi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Rau xanh là món ăn không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của người Việt Nam. Màu xanh của lá, vị ngọt của rau không chỉ giúp chúng ta ngon miệng mà rau xanh còn là nguồn cung cấp chất khoáng, chất đạm và các loại vitamin cho cơ thể. Trong thế giới rau xanh phong phú đó có hằng trăm cây rau được dụng làm gia vị. Rau gia vị là những cây rau có mùi vị đặc biệt có thể làm cho các món ăn thơm hơn, ngon hơn. Rau gia vị còn là những vị thuốc nam có giá trị, sử dụng an toàn và tiện lợi. Một trong những loài rau gia vị đó phải kể đến cây tỏi. Tỏi là một loại rau được dùng làm thức ăn và thuốc từ những năm trước công nguyên trên các vùng nhiệt đới Trung Á, về sau được trồng rộng rãi ở Hi Lạp, Ai Cập và La Mã. Hiện nay tỏi được trồng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới. Có thể sử dụng cả lá và củ làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh cho con người. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã phát hiện ra nhiều công dụng của tỏi đối với sức khỏe của con người. Trong tỏi có chất Alixin có tác dụng diệt khuẩn. Trong y học người ta đã dùng tỏi để chữa bệnh thương hàn, tả lỵ, bạch hầu. Tỏi còn chữa đầy hơi bằng cách ăn trực tiếp hoặc giã nhỏ xoa vào bụng khi bị cúm thì ăn tỏi sống hoặc uống rượu tỏi cũng khỏi. Ngày nay người ta cũng biết đến rất nhiều công dụng của cây tỏi đang được rất nhiều nông dân, các vùng chuyên canh rau lớn của nước ta đã mạnh dạn đầu tư vào cây tỏi, đưa cây tỏi trở thành cây chủ lực của nhiều địa phương. Xưa nay người dân thường để giống bằng củ, phương pháp để giống đó gặp một số khó khăn như: Tỷ lệ mọc mầm của giống kém, để giống từ vụ này sang vụ khác qua thời gian dài nên giống rất dễ bị hỏng nếu như bảo quản không tốt, không loại bỏ được các bệnh đặc biệt là các bệnh do virus, tỷ lệ thoái hóa của các giống là rất cao… Để khắc phục những khó khăn đó người ta đã sử dụng đỉnh sinh trưởng (Meristem) của cây tỏi và tiến hành nuôi cấy in vitro tạo vật liệu khởi đầu sau đó tiến hành nhân nhanh tạo cây sạch bệnh. Với mục đích đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Nghiên cứu nuôi cấy Meristem cây tỏi” 1.2. Mục đích và yêu cầu 1.2.1. Mục đích Nghiên cứu quy trình và nuôi cấy Meristem ở cây tỏi nhằm tạo ra vật liệu sạch bệnh cung cấp cho quá trình nhân nhanh in vitro. 1.2.2. Yêu cầu - Xác định được kỷ thuật khử trùng mẫu thích hợp. - Xác định kích thước Meristem thích hợp. - Xác định môi trường nhân chồi thích hợp. - Xác định được môi trường nhân nhanh chồi thích hợp. PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Giới thiệu chung về cây tỏi 2.1.1. Nguồn gốc, phân loại, đặc điểm thực vật học của cây tỏi. 2.1.1.1. Nguồn gốc Cây tỏi có xuất xứ từ các nước Trung cận Đông: Apganixtan, Iran, đó là những vùng có nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp, biên độ nhiệt ngày và đêm giữa các mùa trong năm chênh lệch rõ rệt. 2.1.1.2. Vị trí phân loại Trong thời gian dài tỏi được xếp vào họ Liliaccae do hoa của nó thuộc loại bầu thượng .Nhưng sau dó một số nhà thực vật học đã đổi thành họ Amaryllidaccea (Amallryllis)- họ thuỷ tiên do hoa của nó được sinh ra ở lá bắc, hình tán , ở ngọn có cán hoa. Gần đây để tránh sự sáo chộn J.G. Agard đã phân loại tỏi vào họ Alliaceac (họ hành tỏi). Họ này cho tới nay có 30 chi và có tới 600 loài. 2.1.1.3. Đặc điểm thực vật học. - Thân: + Thân thật của tỏi rất ngắn đã thoái hoá chúng là dạng đế dò nằm sát ngay dưới thân giả (thân củ). Trên thân thật có mầm sinh dưỡng và sinh thực, những mầm này được che phủ bởi những bẹ lá dày mọng nước. +Thân củ cây tỏi bao gồm một số nhánh (ánh, tép) được liên kết với nhau bởi những màng mỏng. - Lá: Lá thật đầu tiên của tỏi là một lá mầm, sau khi nảy mầm được 10 - 15 ngày tuỳ theo điều kiện thời tiết mà lá tỏi có dạng hình bản bằng phẳng, trên lá có phủ một lớp sáp. Thời kỳ đầu lá tỏi sinh trưởng rất chậm sau khi nảy mầm chỉ dài vài cm. Tuổi thọ của lá phụ thuộc vào sự sinh trưởng và phát triển của cây, khi lá bắt đầu chết cũng là quá trình tạo củ bắt đầu. - Hoa: Hoa tỏi thuộc hoa đầu trạng, hoa có 6 lá đài, 6 nhị và nhụy. Hoa thụ phấn chéo (phấn hoa thường chín trước vì vậy phải thụ phấn với hoa bên cạnh hoặc trên cây khác). Hoa có màu trắng xám đôi khi phớt tím hoặc hồng. Vòi nhụy rất bé, bầu thượng có 3 ngăn nếu được thụ phấn đủ thì sẽ cho 6 hạt. Cành hoa dài 60-100 mm hình ống, màu xanh, một chùm hoa có từ 250-600 hoa phân bố theo 3 tầng. - Củ: Loài tỏi trắng củ to đường kính khoảng 4cm có vỏ màu trắng. Loài tỏi tía củ nhỏ hơn, đường kính 3,5 – 4 cm, củ chắc và cay, dọc thân gần củ có màu tía. Trong củ tỏi chứa 60- 70 % nước, 35 – 42% chất khô, 6,7 – 8% chất béo, 0,3- 3,2% đường, 0,1% chất sơ hữu cơ, 0,1- 0,5% dầu este, 0,06% mỡ, các chất khoáng Ca, Na, Mn, P, Fe và các Vitamin C, E, B1, B6, B2. - Rễ: Rễ tỏi thuộc loại rễ chùm, phát triển kém tập chung chủ yếu ở lớp đất mặt, khả năng chịu hạn kém. Rễ tỏi có nhiều sợi dài phân nhánh yếu, chúng được bao phủ bởi một số lượng lớn lông hút. 2.2. Giá trị và ý nghĩa của tỏi Hành tỏi là cây trồng lâu đời và chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất rau trên thế giới. Không có nước nào, dân tộc nào lại không đưa hành tỏi vào khẩu phần ăn thường nhật. Hành tỏi được sử dụng rộng rãi và đa dạng, lượng dùng hàng ngày không nhiều nhưng cho cả năm thì số lượng đáng kể. Thí dụ ở Liên Xô những năm 1980 bình quân một người ở một số nước từ 14-17kg/năm.Tỏi là một loại rau có giá trị dinh dưỡng cao, theo Ivannova E.P (1980) trong tỏi có các thành phần hoá học như sau: protein 3%, đường 9%, vitaminC 30-35%, các vitaminA,B1,B2,và các chất khoáng Na, Ca, Mg, P, Fe…Do vậy tỏi là một loại rau gia vị không thể thiếu được trong chế biến món ăn hàng ngày của các bà nội trợ và các đầu bếp. - Tỏi còn là một vị thuốc được đông y và tây y sử dụng từ rất sớm. Theo một văn bản của Ai Cập (1550) thì trong 800 đơn thuốc chữa bệnh cho người thì có hơn 20 đơn thuốc có dùng tỏi. - Các bệnh có thể dùng tỏi như một phương thức là những bệnh về tiêu hóa: đầy bụng, chậm tiêu, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, bệnh lỵ...Đau bụng do lạnh. Sốt rét, ho gà, mụn nhọn, đinh độc, viêm loét lâu liền, dụng tóc, nấm tóc.... - Ở Hy Lạp lương y Hippociate và triết gia Airiftote đã khuyên ăn nhiều tỏi để chữa bệnh. - Nhà khoa học Đức Pasteur (1885) đã phát hiện trong tỏi có chất kháng khuẩn. - Tỏi còn có tác dụng đối với làn da Trong tỏi có chứa Vitamin B1, B2, E là chất men khô thể thiếu được trong quá trình chuyển đổi đường, thiếu Vitamin B1 sẽ làm giảm sức đề kháng bệnh tật của cơ thể sinh ra một số bệnh về da. + Vitamin B2 trong tỏi khác Vitamin B2 về hóa chất thông thường có chứa các axit hoàng tố đơn hạt và hoàng tố nhị hạt là chất men chuyển đổi protein, sự chuyển đổi này ảnh hưởng tới vẻ đẹp của da. + Vitamin E trong tỏi có tác dụng tăng cường sức đàn hồi của huyết quản chống bệnh hoại huyết, giải độc, ức chế sinh sắc tố và ứng đọng các sắc tố khác thường. Ngoài ra tỏi có thể phòng ngừa da giảm mốc, da đồi mồi, có tác dụng làm mềm da, chống nắng, tẩy vết đốm làm trắng da. - Ngoài tác dụng làm thức ăn và tác dụng cho người, tỏi còn được sử dụng chế tạo thuốc trừ sâu. Đó là nghiên cứu của nhà khoa học Bangladest lợi dụng tập tính ghét tỏi của côn trùng đã biến tỏi thành thuốc trừ sâu. Dự án kéo dài 4 năm do bộ nông nghiệp Mỹ tài trợ đã cho ra những viên thuốc trừ sâu chế tạo từ tỏi. Theo Bahadur Mrad giám đốc phòng thí ngiệm quản lí sâu hại cho biết viên tỏi là một loại thuốc trừ sâu sinh học không gây ô nhiễm môi trường. Tỷ lệ mọc mầm của hạt khi được sử lí đạt 95- 100% so với 50- 60% hạt không qua sử lí, cây mầm củng khỏe mạnh hơn, không nhiễm bệnh. 2.3. Yêu cầu sinh thái của tỏi 2.3.1. Nhiệt độ Tỏi là cây chịu lạnh tốt có thể sinh trưởng và phát triển tốt ở nhiệt độ 18-200C. Còn trong quá trình tạo củ cần nhiệt độ 20 – 220C 2.3.2. ánh sáng Tỏi là nhóm cây ưa ánh sáng ngày dài. Số giờ sáng 12- 13giờ/ngày sẽ kích thích sự sinh trưởng và phát triển của cây và thúc đẩy quá trình tạo củ. Tuy nhiên những giốngđược tạo ra trong điều kiện ánh sáng ngắn ngày hoặc trung bình thì tỏi phát triển rất thích hợp trong điều kiện có chế độ ánh sáng tương tự như nơi chúng được tạo ra. 2.3.3. Độ ẩm Tùy theo giai đoạn sinh trưởng mà cây tỏi có yêu cầu khác nhau đối với độ ẩm, để phát triển thân lá cây cần có độ ẩm đất là 70- 80%. Để phát triển củ cần độ ẩm là 60%. Nếu thiếu nước cây sẽ đanh lại, củ nhỏ, còn nếu thừa nước thì gây ra hiện tượng úng củ thối củ làm cho củ không giữ được lâu. 2.3.4. Yêu cầu đất trồng tỏi. Đất tốt nhất cho trồng tỏi là đất nhẹ giàu chất hữu cơ, trồng tỏi trên đất cát pha, đất thịt nhiều mùn thường cho năng suất cao. 2.3.5. Các yếu tố dinh dưỡng. - Phân hữu cơ đặc biệt là phân gà, vịt có tác dụng rất tốt đối với cây tỏi. Loại phân chuồng này không những cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho cây nhất là Kali mà còn góp phần tái tạo đất làm cho lớp đất mặt luôn tơi xốp, điều đó rất có ý nghĩa đối với sự sinh trưởng và phát triển của hệ rễ của cây tỏi. - Đạm: Có tác dụng tăng quá trình sinh trưởng của tỏi đặc biệt là hệ rễ, sinh trưởng của cây và lá, tăng đường kính củ, do đó đạm là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất của cây tỏi. Cây đủ đạm lá có màu xanh tối, lá thẳng. Nếu cây thừa đạm đặc biệt vào thời kỳ sau sẽ thúc đẩy sự sinh trưởng của lá, lá mỏng, biến dạng dễ bị gãy và rất dễ bị bệnh hại xâm nhập. Yêu cầu đạm cho cây là 300kg/ha trong suốt quá trình phát triển. - Lân: Tỏi rất mẫn cảm với lân. Cây con đặc biệt mẫn cảm với sự thiếu hụt lân trong đất. Đất thiếu lân làm giảm năng suất, lân xúc tiến sự hình thành phát triển và sự chín già của củ, ngoài ra cây đủ lân củ sau này sẽ bảo quản tốt. - Kali: Có tác dụng tăng năng suất của cây tỏi trên cơ sở bón lân và đạm. Kali không những làm tăng năng suất mà còn làm tăng chất lượng của củ tỏi. Kali làm tăng hàm lượng đường và vitamin. Theo Ivanova E.P (1980) trong điều kiện bón phân đầy đủ một ngày đêm 1 ha tỏi hấp thu 2,5 kg N, 0,8kg P2O5, 4,2kg K2O. Đối với tỏi một vấn đề quan trọng là kỷ thuật bón và công thức phối hợp giữa các loại phân có tính chất quyết định đến năng suất và chất lượng của tỏi. Về nguyên tắc, ở thời kỳ đầu khi bắt đầu hình thành củ thì bón nhiều đạm, kali, photpho vừa phải. Khi thân củ phình to đến thời kỳ thành thục cần tăng cường bón lân và kali hạn chế bón đạm hoặc ngừng bón đạm. - Các nguyên tố vi lượng: Tỏi là cây trồng mẫn cảm với sự thiếu hụt các nguyên tố vi lượng trong đất. + Nguyên tố vi lượng ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng. Đất thiếu đồng (Cu) làm cho cây tỏi gầy yếu, màu sắc kém, giảm khả năng bảo quản, khi bón đồng (Cu) hợp lý sẽ làm cho mẫu mã củ đẹp, thúc đẩy quá trình thành thục và chín già của củ. Đất thiếu mangan (Mg) gây ra bệnh vàng lá, đặc biệt nặng trên đất giàu mùn có tính kiềm cao có thể làm cho cây bị chết. Đất thiếu Mn gây ra vết vàng ở gân lá, lá bị cong và nhăn, cây trở nên cằn cỗi. 2.4. Giống trồng trọt 2.4.1. Giống tỏi Hà Nội : Đặc điểm của giống tỏi này là có lá mầm xanh hơi xẩm, lá thật dạng mềm màu xanh ngà, phiến lá mỏng (dạng lá lúa), thân củ khi non có màu tía nhạt , thời gian sinh trưởng từ 120-130 ngày. 2.4.2.Giống tỏi trắng: Có lá màu xanh ngà , củ non có màu phớt tía, củ già có màu trắng, thời gian sinh trưởng từ 120-130 ngày. 2.4.3. Giống tỏi Việt Nam: Lá màu xanh xẩm , lá đứng có dạng lòng máng, củ non và già đều có màu tím dạng củ tròn và dẹt, thời gian sinh trưởng 130-135 ngày. 2.4.4. Giống tỏi tía: Lá xanh xẩm, lá đứng phiến lá dày dạng lòng máng, cuống lá xanh, cây cao to, củ non có màu tím xẩm củ già có màu tía hình dạng tròn đều. Thời gian sinh trưởng 125-130 ngày. 2.5. Kỹ thuật trồng trọt. 2.5.1. Luân canh tăng vụ Tuỳ theo điều kiện của người sản xuất hoặc của các trang trại có thể bố trí công thức luân canh phù hợp nhằm tăng hiệu quả sử dụng ruộng đất, tăng thu nhập cho người lao động, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Thường áp dụng các công thức luân canh cho tỏi như sau: Lúa xuân - Lúa mùa sớm - Tỏi ta T2- T6 T6- T10 T10- T2 Lúa xuân - Mạ mùa - Rau muống - Tỏi ta T2-T6 T6 - T7 T7- T9 T10-T2 Rau xuân hè - Lúa mùa sớm - Tỏi ta T2-T6 T6-T9 T10-T2 Lạc xuân - Lúa mùa sớm - Tỏi ta T2-T6 T6-T9 T10-T2 Cà chua xuân hè - Lúa mùa sớm - Tỏi ta T2-T6 T6-T9 T10-T2 2.5.2. Thời vụ - Thời vụ sớm nhất cho đất chuyên canh rau vùng Đồng bằng sông Hồng trồng vào cuối tháng 9, năng suất vụ này không cao, cũng không ổn định, cung cấp cho thị trường sớm nên giá bán cao - Thời vụ tập chung chính vụ từ 15-20/10. - Thời vụ muộn trồng cuối tháng 10 đầu tháng 11. Thời vụ này cây sinh trưởng khó khăn, tỏi dễ bị bệnh hại xâm nhiễm. 2.5.3. Đất đai và phân bón Đất đai cho trồng tỏi cần phải làm kỹ. Mặt luống rộng từ 1,2-1.5m, chiều cao 15-20cm, rãnh rộng 25cm. Phân bón cho tỏi như sau: - Phân chuồng: Một sào Bắc Bộ bón từ 5,5-7 tạ phân chuồng - Phân đạm: 6-8 kg - Phân lân : 10 -15 kg - Phân kali: 7-8 kg 2.5.4. Chuẩn bị củ giống Trước khi trồng từ 5-7 ngày dỡ bỏ giống tỏi từ trên giá hoặc từ trên gác bếp xuống, sau 2-3 ngày thì làm vệ sinh củ giống như sau: Tẩy đế: dùng tay dứt bỏ những rễ củ từ năm trước, tiếp đến tách bóc bẹ lá bọc phía ngoài củ và lớp màng mỏng ngăn cách giữa các nhánh. Không được bóc vỏ của mỗi nhánh tỏi, không dùng những nhánh quá nhỏ để làm giống. Trước khi trồng ngâm giống trong dung dịch phân lân 1-2% từ 1-2giờ, sau đó vớt ra để giáo nước rồi trồng. Như vậy sẽ kích thích rễ tỏi mọc sớm. Một sào trồng từ 25-30kg, 1ha trồng 700-810kg giống. 2.5.5. Khoảng cách và mật độ trồng Trên luống từ 5-6 hàng, khoảng cách hàng 18-20cm, khoảng cách cây từ 8-10cm, 1ha trồng khoảng 50 vạn cây, 1 sào trồng khoảng 1,8 vạn cây. Khi trồng dùng ngón cái và ngón trỏ cầm nhánh tỏi ấn nhẹ để 1/3 đến 1/2 nhánh tỏi nằm trong đất. Trồng sâu cây khó mọc. Sau khi trồng khỏa nhẹ đất vào các chân nhánh tỏi và ấn nhẹ cho nhánh tỏi đứng vững. 2.5.6. Chăm sóc sau trồng - Phủ rơm rạ: Sau trồng dùng rơm rạ vụ trước phủ kín mặt luống, tốt nhất nên để rơm rạ từng lớp sóng, không rũ rối, 1ha dùng 2-3 tấn rơm rạ, 1 sào dùng 70-100 kg rơm rạ. Rơm rạ có tác dụng giữ ẩm, giữ nhiệt, làm cho đất luôn tơi xốp, hạn chế cỏ dại. - Tưới nước:Tỏi thuộc cây ưa mát nên cần phải tưới nước đều nên để nguyên lớp rơm rạ khi tưới để giữ ẩm cho đất. Mặt khác việc để cả lớp rơm rạ còn tránh nóng cho cây và không cho cỏ dại mọc. Khoảng nửa tháng sau khi cây mọc nên tưới đạm với liều lượng 30- 40kg/ha. Khi tưới cho nước chảy vào sát gốc, không nên tưới trực tiếp vào gốc hoặc lên lá. Trong vòng sinh trưởng của tỏi nên tưới 4 -5 lần. Muốn cho củ to, chắc thì nên bón thêm lân, kali hoặc cho bếp. ở vùng Miền Bắc người ta tưới cho tỏi bằng nước tiểu pha với nước với tỷ 1/10, tưới vào buổi sáng và buổi chiều. - Trừ cỏ:Phải thường xuyên nhổ cỏ dại thao tác phải nhẹ nhàng. -Tươi thúc: Tươi thúc từ 3-4 lần trong thời gian sinh trưởng của cây tỏi. Lần thứ 1 tưới thúc khi cây có 1-2 lá thật, sau trồng từ 15-20 ngày, liều lượng 1-2kg/sào, 28-56 kg phân ure 1ha. Lần 2 thúc sau trồng 30-35 ngày, liều lượng 2-2,5 kg/sào Bắc Bộ. Lần này cần kết hợp bón phân kali lần thứ nhất, liều lượng 2-2,5kg/ sào Bắc Bộ. Sau trồng 45-55 ngày tưới thúc đạm lần thứ 3 liều lượng giống như lần 2. Sau trồng 50-60 ngày bón thúc kali lần 2, liều lượng 2-3kg/sào. Nồng độ dung dịch từ 0,5 đến 1-1,5% cho các loại phân trên. Sau khi tưới thúc dùng thùng ô doa tưới nhẹ để rửa lá. 2.5.7. Phòng và chữa bệnh cho tỏi Hiện nay tỏi thường mắc các bệnh như: - Bệnh sương mai: Bệnh này thường xuất hiện cuối tháng 11 khi nhiệt độ thấp độ ẩm cao. Vào những ngày này có sương nên tưới nước lã để rữa lá. Để phòng bệnh sương mai cho tỏi cần phải phun thuốc Boocdo 1% (gần 1 kg phèn xanh, 1kg vôi cục, 100lít nước), Zineb 2- 4% phun khoảng 18 -20 lít/sào Bắc Bộ. - Bệnh than đen: Trên củ tỏi vào lúc sắp thu hoạch thường xuyên xuất hiện các chấm đen. Để phòng bệnh này người ta phun dung dịch Zineb, nếu phát hiện củ bị bệnh thì phải lựa ra để loại bỏ. -Bệnh nghẹt cổ rễ Thời kỳ cây con tỏi thường hay bị bệnh nghẹt cổ rễ, cây thấp bé, còi cọc. Nguyên nhân chủ yếu là do đất bị gí chặt, không tơi xốp thông thoáng. Cần phải tăng cường xỉa xới đất và chăm sóc. 2.6. Thu hoạch và bảo quản Từ khi mọc đến thu hoạch mất khoảng 4 tháng, khi quan sát thấy lá tỏi đã già héo thì có thể tiến hành thu hoạch tỏi, người ta nhổ củ rũ sạch đất bó thành chùm rồi treo lên dây để chổ thoáng. Nếu chọn củ tỏi để làm giống cho vụ sau cần lấy những củ già (thời gian sinh trưởng khoảng 140 ngày), củ to đường kính khoảng 3,5 – 4 cm, nhiều nhánh (12-15), không bị bệnh, bó tỏi chung lại rồi cất ở nơi thoáng mát hoặc trên gác bếp. 2.7. Tình hình sản xuất tỏi trên thế giới và trong nước 2.7.1. Tình hình thế giới. Cây tỏi được trồng hầu hết ở tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên diện tích không nhiều. Ở nhiều nước cây tỏi chỉ được trồng làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh trong gia đình chưa là cây xuất khẩu ra nước ngoài. Đến nay do nhiều lý do trong đó là do điều kiện khí hậu của các nước không thích hợp nên cây tỏi không phát triển được. Tuy nhiên một số quốc gia có điều kiện khí hậu giống như Việt Nam thì cây cây tỏi chiếm diện tích khá lớn như: Braxin, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ ... Trong những năm gần đây diện tích và năng suất trồng tỏi không ngừng tăng lên, trong đó diện tích trồng hành tỏi ở Châu Á là lớn nhất. Các nước dẫn đầu về diện tìch là Mỹ, về sản lượng là Trung Quốc và về năng suất là Liên Xô. Theo FAO, 1997 sản lượng tỏi trên thế giới đạt 11,8 triệu tấn, Châu Á chiếm 10,4 triệu tấn. Năng suất tỏi trên thế giới bình quân đạt 11,0 tấn/ha, Châu Á năng suất đạt 12 tấn/ha. Ở hầu hết các loại hành tỏi phù hợp với vùng khí hậu mát mẻ nên được trồng nhiều ở Miền Bắc Đài Loan. Năm 2002 khoảng 179.500ha đất được sử dụng trồng rau tập chung chủ yếu ở các tỉnh Vân Lâm, Trương Hoa, Đài Nam và Chiayi sản lượng đạt 3.462.000 tấn với năng xuất trung bình khoảng 19.300kg/ha trong đó có tỏi. Bên cạnh đó Braxin luôn là quốc gia đi đầu trong sản xuất nông sản (2006) với 2,4 triệu tấn trị giá 518 triệu USD, tăng 28% về khối lượng và 11% về giá trị với cùng kỳ năm 2005. Trong đó lúa mỳ đạt 272 triệu USD, Lê đạt 23 triệu USD, tỏi trên 21 triệu. 2.7.2. Tình hình sản xuất trong nước Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa khí hậu mát mẻ rất thích hợp với các loại rau quả trong đó có cây tỏi, đây là điều kiện không phải nước nào cũng có trên thế giới. Sản xuất rau sạch đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm và đầu tư. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong những năm gần đây các hộ gia đình, các vùng chuyên canh rau lớn như Hà Nội, Mê Linh (Vĩnh Phú), Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Đà Lạt, Quảng Ngãi và các vùng ven đô thành phố Hồ Chí Minh... đã mở rộng diện tích trồng rau, trong đó diện tích trồng tỏi khá lớn. Hàng năm diện tích trồng tỏi của Mê Linh từ 500-600ha. Ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi với hơn 300 ha trồng tỏi nhiều hộ gia đình đã đi lên từ cây tỏi, với 8 sào đất trồng tỏi lãi xuất lên tới 30-40 triệu đồng. Những năm trước nhờ địa phương làm tốt công tác khuyến nông nên sản lượng tỏi mỗi năm một tăng. Nếu như năm 2001 năng xuất tỏi của Lý Sơn đạt 42tạ/ha sản lượng đạt hơn 1300 tấn thì đến năm 2005 năng xuất tăng hơn 10 tạ/ha. Tổng sản lượng đạt gần 1500 tấn/ha trên cùng một diện tích. Xã Nam Trung huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương nhờ trồng tỏi kết hợp với hai vụ lúa đã đưa diện tích bình quân của xã đạt hơn 55 triệu/ha/năm, vụ tỏi 2004- 2005 xã thu hoạch khoảng 4,4 tỷ đồng đến năm 2005 – 2006 tăng 7,5 tỷ đồng. Nhờ biết tận dụng và phát huy thế mạnh của địa phương nên nếu năm 2000 thu nhập bình quân theo đầu người của xã chỉ đạt 4,5 triệu đồng/người/năm thì đến 2005 thu nhập bình quân đầu người đạt 6,3 triệu đồng/người/năm. Có đến 60- 70% gia đình giàu lên nhờ cây tỏi, có những hộ đã đưa được thương hiệu hành tỏi của quê hương vượt khỏi lũy tre làng. Ở xã đã thành lập nhiều cơ sở sản xuất chế biến tỏi và các sản phẩm được chế biến từ tỏi đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật Bản. Bên cạnh đó tỉnh Thái Bình cũng là nơi có diện tích trồng tỏi lớn của cả nước. Riêng xã Qu
Luận văn liên quan