Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu to lơn trên mọi phương diện. Hoà chung công cuộc đổi mới, lĩnh vực tài chính-tiền tệ đã có những cải tổ sâu sắc về tổ chức bộ máy còng nh về nghiệp vụ để phù hợp với cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường. Sự cải tổ có tính chất căn bản nhất của hệ thống ngân hàng là từ ngân hàng một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Điều đó đã phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng của ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Trên cơ sở đó, sự ra đời của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam ngày 12/07/2000 đánh dấu bước phát triển mới trong điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp. Đây là công cụ điều tiết tạo cho Ngân hang Nhà nước sự linh hoạt, chủ động trong việc điều tiết lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế.
Tuy mới đi vào hoạt động được 5 năm nhưng kết quả đạt được của nghiệp vụ thị trường mở trong việc thực hiện chính sách tiÒn tệ của Ngân hàng Nhà nước là rất to lớn và chắc chắn trở thành một công cụ sử dụng chủ yếu trong những năm tiếp theo.
Trên đây là những lý do khiến tôi rất quan tâm và chọn đề tài "Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương" để đi sâu tìm hiểu trong đề án môn học.
58 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8693 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu
Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu to lơn trên mọi phương diện. Hoà chung công cuộc đổi mới, lĩnh vực tài chính-tiền tệ đã có những cải tổ sâu sắc về tổ chức bộ máy còng nh về nghiệp vụ để phù hợp với cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường. Sự cải tổ có tính chất căn bản nhất của hệ thống ngân hàng là từ ngân hàng một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Điều đó đã phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng của ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Trên cơ sở đó, sự ra đời của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam ngày 12/07/2000 đánh dấu bước phát triển mới trong điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp. Đây là công cụ điều tiết tạo cho Ngân hang Nhà nước sự linh hoạt, chủ động trong việc điều tiết lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế.
Tuy mới đi vào hoạt động được 5 năm nhưng kết quả đạt được của nghiệp vụ thị trường mở trong việc thực hiện chính sách tiÒn tệ của Ngân hàng Nhà nước là rất to lớn và chắc chắn trở thành một công cụ sử dụng chủ yếu trong những năm tiếp theo.
Trên đây là những lý do khiến tôi rất quan tâm và chọn đề tài "Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương" để đi sâu tìm hiểu trong đề án môn học.
Phần I:
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
I. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation - OMO) là nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thực hiện việc mua vào hoặc bán ra các giấy tê có giá (chủ yếu là ngắn hạn) nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ trệ cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất ngắn hạn.
Nhiệp vụ thị trường mở ra đời từ những năm đầu thế kỷ XX ở Mỹ và một số nước châu Âu. Cụ thể là vào những năm 1920, Hệ thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã phát hiện ra nghiệp vụ thị trường mở. Khi Fed được thành lập, nguồn thu nhập của nó hoàn toàn chỉ là lãi thu được của những khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng thành viên. Sau cuộc suy thoái năm 1920-1921, khối lượng vay chiết khấu giảm sút nghiêm trọng và Fed rất túng tiền. Nó giải quyết vấn đề này bằng việc mua các chứng khoán sinh lãi. Động thái này của Fed đã làm cho dù trữ trong hệ thống ngân hàng tăng lên và những khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quả đó ngày nay đối với chúng ta là hiển nhiên nhưng với Fed lúc bấy giê là một phát hiện. Mét công cụ mới của chính sách tiền tệ ra đời, và vào cuối những năm 1920, đó là nghiệp vụ thị trường mở. Hiện nay, đây là công cụ này được hầu hết các nước sử dông nh mét công cụ chủ yếu để điều hành Chính sách tiền tệ.
II. Nội dung của nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất bởi vì những nghiệp vụ này là yếu tố quyết định đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ, và là một nguyên nhân gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Việc NHTW mua trên thị trường mở làm tăng cơ số tiền tệ, do đó tăng lượng cung ứng tiền tệ; còn việc bán trên thị trường mở sẽ thu hẹp cơ số tiền tệ bằng cách giảm lượng cung ứng tiền tệ.
II.1. Các nghiệp vụ trên thị trường mở
Trong nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu không có NHTW tham gia thì nói chung khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi. Một ngân hàng thương mại này (NHTM) bán chứng khoán cho mét NHTM khác, xét trong toàn cục chỉ là sự dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ đang dư thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động nhằm thay đổi dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, ví dụ như thay đổi trong tiền gửi kho bạc nhà nước tại NHTW hoặc tiền nổi…
NHTW tiến hành nghiệp vụ thị trường mở với trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc và chứng khoán của các cơ quan Nhà nước khác là vì thị trưởng của những chứng khoán này rất lỏng và có dung lượng kinh doanh lớn nhất. Thị trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm giá cả biến động quá mạnh có thể làm cho thị trường sụp đổ.
Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW thường được thực hiện theo hai cách chủ yÕu: Các giao dịch không hoàn lại và các giao dịch có hoàn lại.
Giao dịch không hoàn lại (Các giao dịch mua đứt bán đoạn)
Các giao dịch không hoàn lại bao gồm các nghiệp vụ mua, bán chứng khoán của NHTW theo các phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ của các ngân hàng là dài hạn.
Giao dịch có hoàn lại (Giao dịch có kỳ hạn)
Hình thức này chủ yếu sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại (Repor). Hợp đồng mua lại, sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là mua chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai. Hợp đồng mua lại đảo ngược được áp dụng khi NHTW muốn rót bớt dự trữ của hệ thống ngân hàng. Để đạt được mục đích này, NHTW bán chứng khoán cho người giao dịch, người đồng ý sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai. Sự chênh lệch giá bán chứng khoán tại thời điểm t = 0 và thời điểm t = T là lãi suất của khoản vay Repor. Nói chung, hợp đồng mua lại được sử dụng trong một thời gian rất ngắn, thường là hợp đồng qua đêm với t = 1 ngày. Tuy nhiên cũng có hợp đồng mua lại dài hơn với t > 1 ngày, đựoc gọi là Repor có thời hạn. Với loại Repor mở, thời hạn t không được xác định trước mà 2 bên thoả thuận lại vào mỗi ngày. Giao dịch theo hợp đồng Repor thực chất là một khoản cho vay có đảm bảo bằng các chứng khoán có tính thị trường cao.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường mở vì những lý do sau:
Thứ nhất, đây là một công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng.
Thứ hai, chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại rẻ hơn so víi các hợp đồng mua đứt bán đoạn.
Thứ ba, Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục.
Thứ tư, làm bớt thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.
Ngoài ra, mét loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở nh: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW; Giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn; Giao dịch hoán đổi ngoại tệ.
II.2. Hàng hoá trên thị trường mở
Chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở không giống nhau ở từng nước. Ở những nước nh Anh và Mỹ, nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch các chứng khoán Chính phủ của NHTW. Nhưng chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở lại phong phú hơn ở các nước Nhật Bản, Pháp, Óc… Mặt khác, có những nước chỉ cho phép các chứng khoán ngắn hạn được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Trong khi các chứng khoán dài hạn lại được chấp nhận ở nước khác. Về mặt lý thuyết, nghiệp vụ thị trường mở không giới hạn cụ thể chủng loại còng nh thời hạn các chứng khoán giao dịch, tuy nhiên những loại chứng khoán nợ chủ yếu bao gồm:
Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do Chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời Ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường ngắn, dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hấu hết NHTW các nước vì :
- Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao
- Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bé tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu Kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của Chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của Chính phủ.
Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các định chế tài chính phi ngân hàng phát hành. Xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với mét mức lãi xuất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sù ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là sức sống của nó, và do đó nó được sử dông nh là hàng hoá phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở.
Thương phiếu
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian xác định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn hạn. Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu; Cã thể là ngân hàng (thông qua các hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương phiếu) hoặc các tổ chức phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp (cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán của các tổ chức này). Vì vậy, việc mua bán thương phiếu của Ngân hàng Trung ương sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại ngân hàng thương mại.
Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở bởi vì tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả tín phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
Trái phiếu chính quyền địa phương
Tương tù nh trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán trái phiếu loại này cũng tương tù nh trái phiếu Chính phủ. Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu là để tài trợ cho chi tiêu của họ và thường chỉ có chính quyền địa phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng và các NHTM thường dùng loại chứng khoán này tái chiết khấu tại NHTW.
Các hợp đồng mua lại
Đây là những món vay ngắn hạn trong đó tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho tài sản cã mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán được nợ. Phần lớn các hợp đông mua lại là do người kinh doanh thực hiện qua đêm, người kinh doanh là ngân hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng thường vay để tài trợ cho tình hình vốn của họ. Các hợp đồng mua lại còng có thể hiểu là các nghiệp vụ trên thị trường mở.
' Hàng hoá trên thị trường mở càng ngày càng có xu hướng đa dạng hoá. Điều này có thể giả thích nh sau:
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Tình trạng này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cấu thu hót vốn vÒ các mặt: Thời hạn, Mức độ rủi ro, Mức sinh lời và cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
Hai là, sù tiến bé nhanh chóng của công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng và mức độ khẩn trương của cuộc sống là động lực quan trọng ra đời các sản phẩm tài chính mới, có ảnh hường đến chủng loại hàng hoá trên thị trường mở.
II.3. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
Các nhiệp cụ thị trường mở được thực hiện thông qua hình thức đÊu thầu. Có hai loại đấu thầu: ĐÊu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.
II.3.1. Đấu thầu khối lượng (đấu thầu với khối lượng xác định)
NHTW niêm yết trước mức lãi suất. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc đăng ký số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất niêm yết.
Việc phân phối thầu đối với một phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: Trước hết toàn bộ số đăng ký đặt thầu được cộng lại với nhau; Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn số lượng được phân phối thì toàn bé các đơn dặt thầu được phân phối; Nếu các đơn đặt thầu lớn hơn số lượng được phân phối thì các đơn đặt thầu sẽ được phân phối theo công thức sau:
Tỷ lệ phân bổ thầu:
K = A ∑ai (i=1,n)
Trong đó:A: Số lượng đấu thầu được phân phối A: Sè lîng ®Êu thÇu ®îc ph©n phèi
n: Tổng số các tổ chức tham gia đấu thầu
ai: Số lượng đặt thầu của tổ chức i
K: Tỷ lệ % phân phối thầu
Số lượng tróng thầu của tổ chức i (Ti) được tính:
Ti = Kx(ai)
II.3.2. Đấu thầu lãi suất
Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do chính mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm mục đích cung ứng thêm cốn khả dụng tức là NHTW thực hiện nghiệp vụ mua, các số lượng đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp. Nghĩa là những số lượng đăng ký thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi suất thấp nhất được chấp nhận, số lượng đăng ký dự thầu lớn hơn số lượng được phân phối thì quá trình phân phối được tiến hành như sau:
Gọi:r rs: Mức lãi suất thứ s được đăng ký
a(rs)i: Sè lượng tiền mặt đặt thầu ứng với mức lãi suất rs của thành viên thứ i
a(rs): Tổng số tiền đặt thầu với mức lãi suất rs của tất cả các tổ chức
rm: Mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận
Đối với đấu thầu để cung ứng khả năng thanh toán thì r1 ≥rs≥rm
Tỷ lệ % tróng thầu được phân phối tại mức lãi suất cuối cùng k(rm):
Số lượng tróng thầu được phân phối cho tổ chức i tại mức lãi suất rm
T(rm)= K(rm)xA(rm)
(Đối với đấu thầu để thu hót dự trữ về thì các quy trình diễn ra theo chiều hướng ngược lại)
Trong đấu thầu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá (phương thức Hà Lan) hoặc nhiều giá (phương thức Mỹ).
II.4. Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở
* Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng trung ương luôn là một bên chủ thể trong các giao dịch trên thị trường mở. Ngân hàng trung ương tham gia với vai trò hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, lùa chọn các công cụ cần thiết để điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có nghiệp vụ thị trường mở. Ngân hàng trung ương tham gia thị trường mở không phải vì động cơ lợi nhuận mà để điều tiết và quản lý thị trường, nhằm thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
* Ngân hàng thương mại
NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng, các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế nhất là ở các nước đang phát triển. Hơn thế nữa, NHTM còn là người huy động vốn để cho vay trên thị trường tiền tệ.
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia nghiệp vụ thị trường mở của NHTW. Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán, cho vay khoản dư thừa để hưởng lãi.
Sù tham gia của các NHTM trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở có ý nghĩa quan trọng xét trên góc độ hiệu quả chính sách tiền tệ.
* Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Bên cạnh các ngân hàng, ở một số nước các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia nghiệp vụ thị trường mở do NHTW tổ chức.
* Các nhà giao dịch sơ cấp(Primary Dealers)
Ngoài ra, trong thực tế ở hầu hết các nước 70% giao dịch của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua vai trò các nhà giao dịch sơ cấp.
Trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở NHTW chỉ thực hiện mua (bán) giấy tờ có giá với các nhà giao dịch sơ cấp. Để thực hiện vai trò này, các nhà giao dịch phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng đúng quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.
II.5. Đặc điểm của nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ
II.5.1. Ưu điểm
Có thể khái quát một sè ưu điểm điểm của nghiệp vô thị trường mở nh sau:
- Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ chủ động: Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể tạo ra những biến động có tính chất cung cấp tín hiệu cho thị trường theo mục tiêu chính sách tiền tệ và tác động vào xu hướng trên thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở do NHTW khởi xướng khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW (chẳng hạn nh cho vay cầm cố bằng giấy tê có giá, cho vay tái chiết khấu) do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. NHTW có thể thực hiện nghiệp vụ theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết.
- Nghiệp vụ thị trường mở do các ngân hàng tự nguyện thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, không có tính chất bắt buộc nh công cô dự trữ bắt buộc.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời hạn giao dịch, NHTW có thể điều chỉnh vốn khả dụng của các ngân hàng với quy mô vốn lớn-nhỏ với thời gian dài hay ngắn tuỳ theo quyết định mua bán là ngắn hay dài. Tính linh hoạt của nghiệp vụ thị trường mở còn thể hiện là khi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở có một quyết định sai lầm nào đó thì NHTW có thể đảo ngược lại ngay tình huống đó. Ví dụ như NHTW thấy rằng lượng tiền cung ứng tăng nhanh do NHTW mua giấy tờ có giá trên thị trường quá nhiều, thì NHTW có thể sửa chữa bằng cách thực hiện giao dịch bán giấy tờ có giá trên thị trường mở để giảm bít cung tiền trong nền kinh tế. Các giao dịch có kỳ hạn cho phép điều chỉnh các biến động không dự đoán trước có ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân hàng hoặc các diến động quá mức dự tính với chi phí thấp và hiệu quả cao. Đặc biệt, thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHTW có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng theo hai chiều bơm - hót (trong khi công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu chỉ nhằm mục đích bơm thêm vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng).
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể được thực hiện nhanh chóng, chính xác, không gây chậm trễ về mặt hành chính. Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao: Giao dịch trên thị trường mở hầu như không gặp rủi ro, xét trên góc độ của NHTW và các tổ chức tín dụng tham gia vì hàng hoá giao dịch trên thị trường mở là những giấy tờ có giá, có tính thanh khoản cao.
- Ngân hàng trung ương có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện trên thị trường sơ cấp chỉ các giao dịch phát hành lần đầu giấy tờ có giá của NHTW và thanh toán các giấy tờ có giá đến hạn. Trong khi đó, nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường thứ cấp thực hiện trên cơ sở các giao dịch mua bán hẳn, mua - bán có kỳ hạn các giấy tờ có giá đã phát hành. Ở hầu hết các nước thì hàng hoá chủ yếu trên thị trường mở là các chứng khoán Chính phủ vì các chứng khoán này có độ an toàn cao, phát hành với khối lượng lớn, định kỳ khá thường xuyên.
II.5.2. Hạn chế
Ngoài những ưu điểm chủ yếu trên, thị trường mở cũng có những điểm hạn chế nhất đinh:
- Các tác động của nghiệp vụ thị trường mở đến lượng tiền cơ sở bị triệt tiêu bởi các tác động ngược chiều làm cho dù trữ của hệ thống ngân hàng không tăng hoặc giảm tương ứng theo ý muốn của NHTW khi thực hiện mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở. Trên thực tế, các hoạt động mua bán giấy tờ có giá của NHTW nhằm bơm thêm vốn khả dụng có thể bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc một số dư tiền gửi ở NHTW tăng lên.
- Khả năng phát huy hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở kh