Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện
thực xuất sắc nh-ng Ngô Tất Tố tr-ớc
hết là một nhà báo, một nhà báo cả
những khi viết tiểu thuyết, một nhà báo
có biệt tài [1], một tay ngôn luận xuất
sắc trong đám nhà nho[6]. Là nhà báo,
ông đã chọn thể loại báo chí nh- một
thể loại gọn nhẹ, tiện lợi, phù hợp với
yêu cầu kịp thời và giàu tính chiến đấu
trên báo chí hàng ngày. Với các bút
danh quen thuộc nh- Thiết Khẩu Nhi,
Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn
Dân, Phó Chi, Tuệ Nhỡn, Thuyết Hải,
Xuân Trào, Đạm Hiên, Hy Cừ. ông đã
viết gần 120 tiểu phẩm báo chí trên các
tuần báo và tạp chí trong Nam ngoài
Bắc từ 1929- 1943. Đánh giá các tiểu
phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ viết: Văn tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố d-ờng nh- làm
thành một bộ sử biên niên của xã hội
Việt Nam những năm từ tr-ớc sau 1930
cho đến hồi đại chiến thế giới lần thứ
hai[2, tr.41].
Đọc tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố, ta nhận thấy mỗi bài một kiểu,
không có sự đơn điệu, trùng lặp và tẻ
nhạt, ng-ợc lại luôn khơi gợi sự hứng
thú ở ng-ời đọc. Qua các tiểu phẩm, ta
dễ dàng nhận ra tác giả là một tài năng
đa dạng, độc đáo, một ngòi bút hết sức
linh hoạt và uyển chuyển khi thâm
thúy sắc sảo, khi dứt khoát đanh thép,
khi thì hài h-ớc và dí dỏm, khi thì hồn
hậu và khỏe khoắn. Tiểu phẩm báo chí
của ông là một phòng triển lãm những
bức chân dung đ-ợc phác thảo theo kiểu
biếm họa giai cấp phong kiến thống trị
và những kiểu ng-ời điển hình trong xã
hội cũ bằng một thứ ngôn ngữ đa dạng,
linh hoạt, nhiều màu sắc. Có thể khẳng
định rằng, thủ pháp châm biếm trong
tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố có sự kết
hợp giữa cái thâm thúy của một trí thức
uyên thâm với cái hồn hậu, lạc quan,
khỏe khoắn giàu tinh thần chiến đấu
của văn học dân gian. Do đó, ngôn ngữ
tiểu phẩm của ông vừa có cái uyên
thâm, bác học, vừa có cái mộc mạc, bình
dân, vừa có cái thâm trầm của lối văn
cử nghiệp, vừa có cái hơi thở nồng nàn
của dân tộc, thời đại. Bài viết này, ở
một mức độ nhất định, đi sâu phân tích
những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu
phẩm báo chí Ngô Tât Tố.
9 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3004 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bỏo cỏo nghiờn cứu
khoa học:
"Ngụn ngữ tiểu
phẩm bỏo chớ của
Ngụ Tất Tố"
tr−ờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008
65
NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí CủA NGÔ TấT Tố
Nguyễn Hoài Nguyên (a)
Tóm tắt. Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố mỗi bài một kiểu, không có sự trùng
lặp và tẻ nhạt, ng−ợc lại luôn khơi gợi sự hứng thú ở ng−ời đọc. Ngôn ngữ tiểu phẩm báo
chí của ông vừa có cái uyên thâm, uyên bác, vừa có cái mộc mạc bình dân, vừa có cái
thâm trầm của lối văn cử nghiệp, vừa có cái hơi thở nồng nàn của dân tộc, thời đại. Bài
viết này, ở một mức độ nhất định chứng tỏ những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu phẩm
báo chí của Ngô Tất Tố.
1. Dẫn nhập
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện
thực xuất sắc nh−ng Ngô Tất Tố tr−ớc
hết là một nhà báo, một nhà báo cả
những khi viết tiểu thuyết, một nhà báo
có biệt tài [1], một tay ngôn luận xuất
sắc trong đám nhà nho [6]. Là nhà báo,
ông đã chọn thể loại báo chí nh− một
thể loại gọn nhẹ, tiện lợi, phù hợp với
yêu cầu kịp thời và giàu tính chiến đấu
trên báo chí hàng ngày. Với các bút
danh quen thuộc nh− Thiết Khẩu Nhi,
Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn
Dân, Phó Chi, Tuệ Nhỡn, Thuyết Hải,
Xuân Trào, Đạm Hiên, Hy Cừ... ông đã
viết gần 120 tiểu phẩm báo chí trên các
tuần báo và tạp chí trong Nam ngoài
Bắc từ 1929- 1943. Đánh giá các tiểu
phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ viết: Văn tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố d−ờng nh− làm
thành một bộ sử biên niên của xã hội
Việt Nam những năm từ tr−ớc sau 1930
cho đến hồi đại chiến thế giới lần thứ
hai [2, tr.41].
Đọc tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố, ta nhận thấy mỗi bài một kiểu,
không có sự đơn điệu, trùng lặp và tẻ
nhạt, ng−ợc lại luôn khơi gợi sự hứng
thú ở ng−ời đọc. Qua các tiểu phẩm, ta
dễ dàng nhận ra tác giả là một tài năng
đa dạng, độc đáo, một ngòi bút hết sức
linh hoạt và uyển chuyển khi thâm
thúy sắc sảo, khi dứt khoát đanh thép,
khi thì hài h−ớc và dí dỏm, khi thì hồn
hậu và khỏe khoắn. Tiểu phẩm báo chí
của ông là một phòng triển lãm những
bức chân dung đ−ợc phác thảo theo kiểu
biếm họa giai cấp phong kiến thống trị
và những kiểu ng−ời điển hình trong xã
hội cũ bằng một thứ ngôn ngữ đa dạng,
linh hoạt, nhiều màu sắc. Có thể khẳng
định rằng, thủ pháp châm biếm trong
tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố có sự kết
hợp giữa cái thâm thúy của một trí thức
uyên thâm với cái hồn hậu, lạc quan,
khỏe khoắn giàu tinh thần chiến đấu
của văn học dân gian. Do đó, ngôn ngữ
tiểu phẩm của ông vừa có cái uyên
thâm, bác học, vừa có cái mộc mạc, bình
dân, vừa có cái thâm trầm của lối văn
cử nghiệp, vừa có cái hơi thở nồng nàn
của dân tộc, thời đại. Bài viết này, ở
một mức độ nhất định, đi sâu phân tích
những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu
phẩm báo chí Ngô Tât Tố.
2. Đặc sắc ngôn ngữ tiểu phẩm
báo chí của Ngô Tất Tố
2.1. Sử dụng linh hoạt vốn từ vựng
tiếng Việt
Do tiểu phẩm báo chí có sự kết hợp
.
Nhận bài ngày 08/10/2008. Sửa chữa xong 16/10/2008.
Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí..., TR. 65-72
66
giữa ngôn ngữ sự kiện với ngôn ngữ
nghệ thuật nên cho phép sử dụng các
lớp từ thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ
khác nhau. Cố nhiên, việc khai thác và
sử dụng chủ yếu lớp từ nào là tùy thuộc
ở kiểu lựa chọn của ng−ời viết. Là một
nhà nho có vốn kiến thức uyên thâm,
Ngô Tất Tố đã phát huy những −u thế
từ vốn Hán học, vốn văn hóa ph−ơng
Đông mà tr−ớc hết là lớp từ Hán Việt.
Nhờ lớp từ này, tiếng Việt đã có thêm
một vốn từ vựng hết sức phong phú về
số l−ợng và chất l−ợng. Hơn nữa, âm
Hán Việt lại đ−ợc ghi bằng chữ quốc
ngữ nên từ Hán Việt đã cho ng−ời Việt
khả năng tri nhận mới về nghĩa một
cách tự do hơn. Nhờ đó, ngoài việc biểu
thị chính xác các khái niệm, nghĩa của
từ Hán Việt có thể phát triển theo t−
duy liên t−ởng của ng−ời Việt, làm nảy
sinh hàng loạt các vấn đề thú vị trong
tiếng Việt nh− các hiện t−ợng đồng âm,
đồng nghĩa... làm phong phú vốn từ
tiếng Việt cả trong sử dụng.
Nhà nho Ngô Tất Tố dĩ nhiên thấy
đ−ợc tiềm năng to lớn của từ Hán Việt
và ông đã khai thác và sử dụng chúng
một cách dày đặc trong các tác phẩm.
Cùng viết tiểu phẩm báo chí để châm
biếm, đả kích cái xấu, cái lạc hậu nh−ng
nếu Hồ Chí Minh chủ tr−ơng khai thác
lớp từ thuần Việt thì Ngô Tất Tố lại chủ
yếu sử dụng lớp từ Hán Việt. Qua cách
sử dụng của Ngô Tất Tố, các từ Hán
Việt đã tạo đ−ợc những liên t−ởng bất
ngờ, thú vị, những hàm nghĩa tinh tế
làm bật lên tiếng c−ời châm biếm sâu
cay. Chẳng hạn, trong tiểu phẩm Giết
ng−ời c−ớp của, ông viết: Một số rất lớn
cụ lang, ông lang, chú lang, anh lang
kia đều là tổ s−, thánh s−, tiên s− và kỉ
s− của nghề bịp [7, tr.156]. Trớ trêu
thay, những kẻ vốn là thầy đồ dốt, là
anh chàng thi tr−ợt bằng tiểu học, là
đứa vô nghề nghiệp, là những bọn chữ
tây chữ tàu chẳng biết bỗng nhiên
thành lang mà lại là tổ s−, thánh s−,
tiên s−, kỉ s− hành nghề bằng thủ đoạn
mỗi ng−ời bị lừa một lần thì tôi sẽ trở
thành một nhà triệu phú. Các từ Hán
Việt trong câu văn trên có tác dụng
vạch mặt chỉ tên những kẻ vô đạo đức,
nấp d−ới vỏ bọc bịp bợm để làm giàu
một cách vô l−ơng tâm.
Có thể nói, trong các tiểu phẩm báo
chí, Ngô Tất Tố đã có ý thức dùng lớp từ
Hán Việt với một số l−ợng lớn và một
tần số cao. Thống kê trong 114 tiểu
phẩm có 7172 l−ợt từ Hán Việt đ−ợc sử
dụng, trong đó, có những từ xuất hiện
với một tần số cao nh− chính phủ 66
lần, dân biểu 37 lần, dân tộc 35 lần,
tiên sinh 30 lần, hiến pháp 28 lần, nghị
viện 28 lần, tổng lý 14 lần, kinh tế 13
lần... Trong các đoạn văn, từ Hán Việt
sử dụng một cách dày đặc, ý nghĩa
thâm thúy. Chẳng hạn, đoạn văn trong
tiểu phẩm Cho no đủ đã: Lại biết bao
những tài chủ, nghiệp chủ và điền chủ
cùng những danh công, đại th−ơng lập
nên những công ti vĩ đại, những cổ
phần, những th−ơng phiếu trên nghị
tr−ờng quốc tế có địa vị cao quý làm cho
bao kẻ thèm muốn cái xứ bờ xôi ruộng
mật. Lại những cảnh t−ợng xa hoa
trong các nơi thành thị, những công sở,
những biệt thự, những lâu đài kiến trúc
kinh phí hàng năm kể vạn, kể triệu [7,
tr.336]. Chỉ một đoạn văn ngắn mà có
hàng loạt từ Hán Việt nh− tài chủ,
nghiệp chủ, điền chủ, danh công, đại
th−ơng, công ti, vĩ đại, cổ phần, th−ơng
phiếu, nghị tr−ờng, quốc tế, địa vị, cao
quý, cảnh t−ợng, kiến trúc, kinh phí,
vạn, triệu. Đằng sau cái vẻ sang trọng
của những từ Hán Việt, Ngô Tất Tố đã
phác họa lí lịch cá nhân của các vị tai to
mặt lớn, những ngài đóng vai trò ông
tr−ờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008
67
chủ trong xã hội từ thủ hiến, thống đốc
ng−ời Pháp cho đến quan lại hàng tỉnh,
hàng huyện, viện tr−ởng dân biểu, nghị
viện, bọn địa chủ... phần nhiều là
những bọn ăn chó cả lông ăn hồng cả
hột.
Đặc biệt ở Ngô Tất Tố, bên cạnh lớp
từ Hán Việt, lớp từ thuần Việt cũng
đ−ợc ông khai thác triệt để và có hiệu
quả cao. Đọc các tiểu phẩm của ông,
chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp từ nôm
na thông tục đ−ợc sử dụng khá phổ
biến, đa dạng nh−ng có chọn lọc, phù
hợp với từng đối t−ợng cụ thể, gắn chặt
với những ngữ cảnh nhất định. Tác giả
đã khai thác triệt để những từ khẩu
ngữ vốn đ−ợc sử dụng trong sinh hoạt
hàng ngày nh− đớ (l−ỡi), (nghe) lỏm, ả,
(nói) toẹt, nhè (dịp), (rất) ê, rảnh (việc),
mút (n−ớc mắm), lòi (ra), tếch, ma
(nào), b−ng (miệng), (kể) nốt, (chết)
quách, (khểnh) cẳng, (khéo) nhử, sỏ
(lợn), (làm) đỏm, (vào) bè, con nít, ngắc
ngoải, bô bô, vọc vạch, nộm nạm, hằm
hằm, ngủng nghỉnh, hục hặc, bố cu, bố
đĩ, vừa vặn, ậm ọe, nắc nỏm... Ông cũng
mạnh dạn sử dụng các từ điạ ph−ơng,
từ cổ, từ thông tục nh− nhời (lời), dục
dịch (rục rịch), binh (bênh), mần (làm),
dái cá (rái cá), lạt (nhạt), chút tội (trút
tội), róc (cạn), bồ côi (mồ côi), chi (gì),
nên chi (cho nên), d−a dứa (từa tựa),
ch−ng muốn (vì muốn), mần thinh (làm
thinh), van (gọi), bạ men, dong dự, chật
cheo... Các tổ hợp từ mang tính khẩu
ngữ cũng đ−ợc tác giả sử dụng hết sức
tự nhiên nh− đổ máu mồm, b−ng
miệng, khổ bỏ mẹ, bạn nối khố, choang
cho một mẻ, ăn phải bả, bị chết toi,
chẳng ma nào, khểnh cẳng, ở cạnh
nách, khéo nhử, đẻ thả cửa, nói dại đổ
đi, quất vào đít...
Có thể dẫn trong tiểu phẩm Ông
Phạm Quỳnh là bạc tình lang, Ngô Tất
Tố viết: Tr−ớc kia màu hồ còn đ−ợm, xã
hội còn kẻ đón ng−ời đ−a, thì đối với chị
ả Nam Phong, tiên sinh cũng hết lòng
chải chuốt, khiến cho ả đúng tuần trăng
mà ra mặt với đời. Vài năm gần đây,
chị ả vì phấn lạt h−ơng phai, tiên sinh
ruồng rẫy ngay ả, mà ôm ái tình đi
sang con đ−ờng chính trị. Tiên sinh
chẳng ó ê đến ả, để cho ả sống dở chết
dở, thoi thóp, ngắc ngoải... [7, tr.92].
Các từ ả, chị ả, ó ê, ruồng rẫy, ôm, thoi
thóp, ngắc ngoải, các tổ hợp từ kẻ đón
ng−ời đ−a, ra mặt, phấn lạt h−ơng
phai, sống dở chết dở làm cho các câu
văn vừa bộc lộ tính chân thực của sự
kiện vừa là lời bình luận xác đáng, làm
cho thông tin đ−a ra có sức truyền cảm
và tác động mạnh mẽ đối với ng−ời đọc,
giúp ng−ời đọc dễ dàng nhận ra chân
t−ớng của chàng bạc tình Phạm Quỳnh,
một trí thức có cỡ nh−ng lại là kẻ cơ hội.
ở nhiều tr−ờng hợp khác, Ngô Tất Tố
mạnh dạn dùng những từ địa ph−ơng,
từ thông tục mang sắc thái mỉa mai,
châm biếm vừa thể hiện một cách cụ
thể, chi tiết sự thật đ−ợc phản ánh.
Vạch trần bản chất bịp bợm của bọn vô
học nh−ng lại tìm cách làm giàu trên
đau khổ của ng−ời khác, tác giả viết: Lạ
lùng nhất là phép chữa bệnh của đức
giáo chủ. Kẻ nào có bệnh xin chữa thì
ngài hoặc dùng roi mây mà quất vào
đít, hoặc dùng n−ớc lạnh mà đổ vào
mũi, hoặc dùng bùa giấy mà thọc vào
cuống họng, để chẩy ra rãi xanh, rãi
vàng [7, tr.233]. Cách dùng các từ quất,
đít, n−ớc lạnh, thọc, chẩy, rãi (xanh,
vàng) hết sức tự nhiên, có vị trí và sức
sống mới trong câu văn, chứng tỏ Ngô
Tất Tố đã biết khai thác những khả
năng tiềm tàng của ngôn ngữ dân gian.
Nh− vậy, qua cách dùng từ của Ngô
Tất Tố, ta nhận thấy ông không quá
lạm dụng những từ ngữ bác học mà
Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí..., TR. 65-72
68
dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều
l−ợng. Bên cạch lớp từ Hán Việt, lớp từ
dân gian cũng đ−ợc ông khai thác khá
triệt để. Có thể khẳng định rằng, cách
dùng từ ngữ trong tiểu phẩm báo chí
của Ngô Tất Tố là hết sức độc đáo, đa
dạng, limh hoạt và đầy tính sáng tạo.
2.2. Đổi mới cách diễn đạt truyền
thống
Là một nhà Hán học uyên thâm,
Ngô Tất Tố rất có ý thức khai thác các
điển tích, điển cố, các giai thoại trong
các sách vở Trung Hoa. Dĩ nhiên, ông
vận dụng những điển tích, điển cố là để
so sánh, đối chiếu, luận bàn những
chuyện, những việc ngày nay. Có thể kể
hàng loạt tr−ờng hợp nh− ông lấy
truyện Trịnh Hoàng trong Hậu Hán th−
để đả kích tên thống sứ Bắc kì
Tholance, lấy chuyện vợ Chu Mãi Thần
để so sánh với tình thế oái oăm của báo
Tân Việt, lấy tích D−ơng Tấn trong
truyện Phong thần có đủ bảy hai phép
hóa thân để chế diễu Phạm Quỳnh sáng
lập ra Hiến pháp tam giác, lấy chuyện
Lâu S− Đức nhà Đ−ờng khuyên ng−ời
em khi đi làm thái thú phải tốt nhịn để
dè bỉu bãi n−ớc bọt trên mặt ông tuần
phủ Nguyễn Doãn T, lấy giai thoại Th−
công trong chuyện Trang Tử cho khỉ ăn
sáng ba chiều bốn để vạch mặt trò hề
mị dân của thống đốc Nam kì Pages....
Cách sử dụng điển tích, điển cố, giai
thoại trong tiểu phẩm không hề cầu kì,
sách vở mà hết sức tự nhiên, có dụng ý
rõ ràng, làm nổi bật những sự việc mà
tác giả định nói, định viết. Hầu hết các
điển tích, điển cố, giai thoại đ−ợc đặt
trong t−ơng quan chuyện x−a chuyện
nay để ng−ời đọc tự rút ra kết luận, tạo
nên những liên t−ởng bất ngờ, gây hứng
thú cho ng−ời đọc. Chẳng hạn, trong
tiểu phẩm Ông thống sứ với trận m−a
hôm nọ, Ngô Tất Tố lấy truyện Trịnh
Hoàng để đả kích tên thống sứ Bắc kì
Tholance. Trong truyện x−a Trịnh
Hoàng là một ông quan mà lòng nhân
đức đã cảm động đến cả trời nên ông đi
đến đâu thì m−a theo xe đến đó. Trái
lại, thống sứ Tholance khi còn ở Bắc kì
thì trời nắng hạn, khi hắn xuống tàu về
n−ớc thì trời đổ m−a rào. Cũng là sự
m−a nh−ng khác nhau. Với chuyện
ngày nay thì m−a là để rửa sạch những
rác r−ởi, nhơ bẩn mà y đã làm ở Việt
Nam. Lối ví von qua điển tích thật là
thâm thúy.
Bên cạnh việc khai thác vốn cổ
Trung Hoa, Ngô Tất Tố cũng hết sức
quan tâm khai thác và vận dụng những
cách diễn đạt truyền thống của dân tộc.
Đây là một trong những nét đặc sắc
trong ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí Ngô
Tất Tố. Những cách diễn đạt truyền
thống mà chúng tôi quan niệm ở đây
bao gồm cả thành ngữ, tục ngữ, ca dao,
những lời nói có tính châm ngôn, những
áng thơ văn quen thuộc trong Truyện
Kiều, Chinh phụ ngâm... nh−ng nổi bật
nhất ở tiểu phẩm Ngô Tất Tố là việc
vận dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian.
Trong các tiểu phẩm của Ngô Tất
Tố, các thành ngữ, tục ngữ đ−ợc sử
dụng khá phổ biến, linh hoạt, có các
dạng thức khác nhau hết sức sinh động
và sáng tạo. Có những tr−ờng hợp ông
dùng nguyên vẹn các thành ngữ, tục
ngữ nh− kẻ đón ng−ời đ−a, chen vai
thích cánh, run nh− cầy sấy, giật gấu vá
vai, tiền mất tật mang, chân lấm tay
bùn, tan cửa nát nhà, bùn lầy n−ớc
đọng, mập mờ đánh lận con đen, dây cà
ra dây muống, con rồng cháu tiên, ăn
cây nào rào cây ấy, ăn quả nhớ kẻ trồng
cây... Tuy giữ nguyên cách diễn đạt dân
gian nh−ng ông dùng chính xác cho
từng đối t−ợng, vấn đề, tạo đ−ợc những
ngữ cảnh phù hợp có hàm ý sâu xa làm
tr−ờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008
69
cho các thành ngữ, tục ngữ có sự cộng
h−ởng về ngữ nghĩa làm xuất hiện cái
mới, một yêu cầu cơ bản của ngôn ngữ
báo chí. Chẳng hạn, trong tiểu phẩm
Họ vẫn ăn vào cái xác chết, từ sự cố bà
lão ăn mày chết ở chợ, lí tr−ởng đã sai
chân tay kéo xác vào các quán bán hàng
để đục khoét tiền của các chủ quán và
đây là tình cảnh của bác lái lợn: Thôi
đ−ợc, cứ về, nh−ng phải câm nhé, nếu có
đứa nào nó biết thì tôi không thể nào
che chở cho anh đ−ợc mà anh thì tiền
mất tật mang đấy [7, tr.252]. Qua cách
dùng thành ngữ tiền mất tật mang ta
thấy ở đây vừa có nghĩa đen vừa có
nghĩa bóng, có lời khuyên ra vẻ ban ơn
lẫn lời hăm dọa của kẻ quyền thế. Cái
hàm nghĩa tinh tế của thành ngữ đ−ợc
nảy sinh trong ngữ cảnh bác lái lợn đã
phải trút hầu bao dâng cụ lí năm đồng
và đ−ợc cụ hứa che chở.
Trong nhiều tr−ờng hợp, Ngô Tất
Tố cải biến cấu trúc của các thành ngữ,
tục ngữ. Cải biến cấu trúc diễn đạt là
một nét độc đáo, một sự sáng tạo trong
việc khai thác và sử dụng cách diễn đạt
truyền thống. ở đây, cũng cần nói thêm,
thời thuộc Pháp, do chính sách kiểm
duyện gắt gao của của chính quyền thực
dân, đôi khi ông phải dùng lối viết bóng
gió quanh co nên có những thành ngữ,
tục ngữ phải hòa tan vào trong đoạn
văn. Chẳng hạn, thành ngữ trơ nh− mặt
thớt đ−ợc sử dụng trong đoạn văn sau
đây: Các ngài không ở thôn quê có lẽ
không hiểu nỗi khó khăn của sự đi
m−ợn. Đừng nói m−ợn mặt, mỗi khi có
việc ăn uống, dân quê muốn đi m−ợn
cái thớt thái thịt cũng phải mất công
xách đi xách về. Đằng này không đợi
chúng ta hỏi m−ợn, chính các ông ấy tự
mình đem mặt ra thay chúng ta há
chẳng phải là sự hào hiệp? Với sự hào
hiệp ấy, nếu không ai tỏ lời cảm ơn,
không khỏi có kẻ bảo chúng ta là ng−ời
rẻ của coi cái mặt ng−ời này không
bằng cái thớt ng−ời khác [7, tr.341].
Phải chăng, đây là sự thay đổi chiến
l−ợc, chiến thuật khéo léo để đấu tranh
hợp pháp lâu dài? ở hầu hết các tr−ờng
hợp khác, ông cố ý cải biến cấu trúc
thành ngữ, tục ngữ để cho sự diễn đạt
phù hợp với nội dung tiểu phẩm, thể
hiện đúng điều mình cần nói, cần viết.
Có ba biện pháp cải biến cấu trúc. Thứ
nhất, ông dùng biện pháp đảo trật tự
yếu tố. Thông th−ờng, trật tự các yếu tố
trong thành ngữ, tục ngữ là cố định
nh−ng khi thay đổi vị trí của các yếu tố,
đặt ý này tr−ớc ý kia là có sự cân nhắc,
thể hiện dụng ý của ng−ời viết. Đó là
các thành ngữ cao mũ dài áo, cơm no áo
ấm.... Trong câu Cuộc cách mệnh ấy đã
lan đến các cụ cao mũ dài áo [7, tr.154]
thì sự đảo trật tự yếu tố của thành ngữ
không thể là ngẫu nhiên, tùy tiện mà
thể hiện một thái độ châm biếm, hạ bệ
những ng−ời có bộ sắc phục ấy đang
làm ra vẻ hăng hái cách mạng cái áo
thụng để khỏi mang tiếng hủ bại. Biện
pháp thứ hai là thêm/bớt yếu tố. Biện
pháp này một mặt gây sự chú ý cho
ng−ời đọc, mặt khác gia tăng ngữ nghĩa
cho thành ngữ, tục ngữ. Có khá nhiều
tr−ờng hợp ông sử dụng biện pháp
thêm/bớt yếu tố nh− đánh bạc thì lúc đỏ
lúc đen, đỏ thì lên voi, đen thì xuống
chó; gắp lửa mà bỏ tay ng−ời ta; thế thì
những cuộc đi thề chỉ là những chuyện
cá trê chui ống.... Lại có tr−ờng hợp, ông
dùng biện pháp bớt yếu tố của thành
ngữ. Chẳng hạn, một phần lớn hơn nữa
là những ông xuất thân trong ngạch
đầu chày... coi làm nghị viên cũng nh−
làm lí tr−ởng, làm chánh tổng hay mua
bá hộ vậy [7, tr.216]. Thành ngữ đầu
chày đít thớt đ−ợc sử dụng theo kiểu bớt
yếu tố làm cho ng−ời đọc nhận ra thái
Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí..., TR. 65-72
70
độ khinh bỉ của tác giả đối với những
nghị viên dân biểu chỉ là hạng chạy
chọt, mua bán mà có. Biện pháp thứ ba
là thay thế yếu tố trong cấu trúc thành
ngữ. Ngô Tất Tố dùng biện pháp này
nhằm tăng thêm tính sự kiện cho các
tiểu phẩm báo chí của mình. Đó là các
thành ngữ ch−ớng tai nghịch mắt, hàng
rau hàng cá, đầu đi đuôi lọt.... Cũng có
những tr−ờng hợp Ngô Tất Tố cải biến
hình thức diễn đạt dân gian hết sức độc
đáo, sáng tạo, đó là mạnh dạn cải biến
toàn bộ cấu trúc thành ngữ. Đó là các
tr−ờng hợp chuôi chẳng khi nào lại
ngắn hơn gáo, thằng còng làm ch−a
chắc đã đủ cho thằng ngay ăn, tai ếch
hay là đầu cua.... Thành ngữ đầu cua
tai nheo có nghĩa là mọi chi tiết, mọi
chuyện ngóc ngách sâu kín của sự việc,
câu chuyện. Khi sử dụng thành ngữ
này, ông đã thay đổi yếu tố nheo (cá
nheo) bằng yếu tố ếch, thêm vào yếu tố
hay là biến đổi quan hệ giữa các yếu tố
trong thành ngữ trong tr−ờng hợp: Cố
nhiên họ không thèm biết chủ nghĩa xã
hội là tai ếch hay đầu cua [7, tr.258].
Qua cách sử dụng thành ngữ, ta thấy
nghĩa gốc của thành ngữ gần nh− đ−ợc
giữ nguyên còn đ−ợc chồng lên một tầng
nghĩa mới, gia tăng sắc thái biểu cảm.
Những ng−ời đ−ợc nói đến ở đây là
những ng−ời làm ở báo Tân Việt Nam
xin vào đảng xã hội làm thang để trèo
lên ghế nghị viên của viện dân biểu.
Đây chỉ là những lũ cơ hội chính trị, lộ
rõ bản chất dối trá, l−ờng gạt. Cách sử
dụng thành ngữ của Ngô Tất Tố làm
tăng thêm tính sự kiện cho báo chí;
thông qua sự liên t−ởng của ng−ời đọc
mà l−ợng thông tin báo chí gia tăng.
Nh− vậy, qua cách dùng thành ngữ, tục
ngữ, Ngô Tất Tố đã làm cho các hình
thức diễn đạt dân gian trở nên tinh tế
hơn, chính xác hơn, hiện đại hơn.
2.3. Khai thác triệt để đặc điểm của
tiếng Việt
Là nhà nho có vốn hiểu biết sâu
rộng, Ngô Tất Tố có cảm thức sâu sắc
và nhạy bén về các đặc điểm của tiếng
Việt, khai thác và sử dụng chúng khá
thành công trong các tiểu phẩm báo chí,
tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với
ng−ời đọc. Tr−ớc hết, Ngô Tất Tố dựa
vào tính phân tiết của tiếng Việt để
thực hiện những hình thức tách ghép từ
khiến cho cách dùng từ trong tiểu phẩm
bộc lộ những hàm nghĩa hết sức tinh tế.
Chẳng hạn, nhân sự kiện báo Tổ quốc
Việt Nam đăng tin ông Hoàng Trọng
Phu từ chức tổng đốc Hà Đông nh−ng
sau lại đ−ợc giữ lại thêm một thời gian
nữa, Ngô Tất Tố viết: Nếu không, nếu
tỉnh Hà Đông bị thiếu một ông tổng đốc
thì tổ quốc có khi sẽ thành tổ... cò [7,
tr.170]. Cái tổ quốc ở đây là của tờ báo
Tổ quốc Việt Nam và một ông tổng đốc
Hà Đông từ chức thì cái nhà sẽ thiếu
một cột tức là tổ quốc (của tờ báo Tổ
quốc Việt Nam) sẽ đổ thì quốc dân sẽ ở
vào đâu? Cách tách ghép từ tổ quốc
thành tổ cò tạo nên một tiếng c−ời hài
h−ớc nhẹ nhàng, dí dỏm.
Lại có những tr−ờng h