Bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thì có một điều không thể thiếu được đó là phải tạo nguồn vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam bước sang thế kỷ XXI là ổn định và phát triển kinh tế xã - hội, cải thiện đời sống nhân dân thoát khỏi tình trạng nước nghèo nàn và kém phát triển, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn. Chính vì thế phải huy động và tạo lập được nguồn vốn, xét về mặt chiến lược thì nguồn vốn trong nước là chủ yếu, vững chắc, quyết định và nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng.
Nếu xét về ở góc độ của ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động ngân hàng nói chung và quy mô các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn vốn dồi dào là cơ sở tạo uy tín đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.Về phía ngân hàng muốn giải quyết tốt vấn đề tạo lập vốn trong dân cư cần phải tìm ra những giải pháp tốt nhất, công cụ lãi suất và các hình thức huy động vốn. Vì vậy, nguồn vốn là sự cần thiết không thể thiếu được của ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ thực tiễn của ngân hàng Thương mại Việt Nam, trước yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt trong nước và trên thị trường quốc tế, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các ngân hàng thương mại là phải xây dựng chiến lược “Huy động vốn”, từ đó mới có thể đẩy mạnh quá trình huy động vốn trong dân cư, cũng như từ các chủ thể khác trong nền kinh tế, giúp cho quá trình luân chuyển vốn diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả, hoàn thành mục tiêu là chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế trong những năm mới của thế kỷ XXI.
Qua quá trình nghiên cứu, trên cơ sở lý luận qua các tài liệu, tạp chí ngân hàng, tài liệu môn lý thuyết tiền tệ ngân hàng và kiến thức học tập từ thầy giáo bộ môn, em xin mạnh dạn nêu ra vấn đề “Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam”.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3116 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thì có một điều không thể thiếu được đó là phải tạo nguồn vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam bước sang thế kỷ XXI là ổn định và phát triển kinh tế xã - hội, cải thiện đời sống nhân dân thoát khỏi tình trạng nước nghèo nàn và kém phát triển, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn. Chính vì thế phải huy động và tạo lập được nguồn vốn, xét về mặt chiến lược thì nguồn vốn trong nước là chủ yếu, vững chắc, quyết định và nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng.
Nếu xét về ở góc độ của ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động ngân hàng nói chung và quy mô các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn vốn dồi dào là cơ sở tạo uy tín đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.Về phía ngân hàng muốn giải quyết tốt vấn đề tạo lập vốn trong dân cư cần phải tìm ra những giải pháp tốt nhất, công cụ lãi suất và các hình thức huy động vốn. Vì vậy, nguồn vốn là sự cần thiết không thể thiếu được của ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ thực tiễn của ngân hàng Thương mại Việt Nam, trước yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt trong nước và trên thị trường quốc tế, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các ngân hàng thương mại là phải xây dựng chiến lược “Huy động vốn”, từ đó mới có thể đẩy mạnh quá trình huy động vốn trong dân cư, cũng như từ các chủ thể khác trong nền kinh tế, giúp cho quá trình luân chuyển vốn diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả, hoàn thành mục tiêu là chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế trong những năm mới của thế kỷ XXI.
Qua quá trình nghiên cứu, trên cơ sở lý luận qua các tài liệu, tạp chí ngân hàng, tài liệu môn lý thuyết tiền tệ ngân hàng và kiến thức học tập từ thầy giáo bộ môn, em xin mạnh dạn nêu ra vấn đề “Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam”.
Thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và thực tế, thực trạng của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, mục đích của đề án là trình bày rõ lý luận về nguồn vốn kinh doanh trong hệ thống ngân hàng thương mại trên phương diện chung, đồng thời qua việc đánh giá thực trạng huy động vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam trong các năm gần đây, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo lập vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gín tới.
CHƯƠNG I
Nguồn vốn trong hoạt động
kinh doanh
của ngân hàng thương mại
I. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Sự ra đời của hệ thống ngân hàng thương mại đã đánh dấu một bước phát triển trong đời sống kinh tế - xã hội loài người. Hệ thống ngân hàng thương mại hiện này là kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu dài phù hợp với tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Ngân hàng thương mại được xem là con đẻ của nền kinh tế thị trường đồng thời nó là một bộ phận không thể tách rời và tồn tại như một tất yếu lịch sử trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại.
Quan niệm về ngân hàng thương mại ở các nước tuy có một số điểm khác nhau nhưng nhìn chung đều được xem là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Theo “luật của các tổ chức tín dụng” được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 12 năm 1997 xác định ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng, là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài hoạt động của ngân hàng ngày càng trở lên đa dạng và phong phú. Các nghiệp vụ của ngân hàng phát triển nhanh chóng nhờ kết quả của sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ cũng như sự tiền bộ trong nhiều lĩnh vực có liên quan như: khoa học quản lý, công nghệ thông tin cũng nhờ đó, hoạt động của ngân hàng thương mại đã kết hợp đan xen chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống rộng lớn và thống nhất. Hệ thống này có chức năng và vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại có những vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế:
- Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, do tính biến động thường xuyên của nhu cầu vốn trong kinh doanh tại một thời điểm luôn tồn tại những doanh nghiệp, những các cá nhân thương mại, đóng vài trò là cầu nối thu hút vốn nhàn rỗi chuyển sang cho những tác nhân thiếu vốn từ đó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục.
- Cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư: ngân hàng thương mại là một trong hai kênh chuyển hóa tiền tiết kiệm thành đầu tư. Trong khi thực hiện chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thu hút những khoản tiết kiệm trong phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh.
- Tích tụ và tập trung vốn. ngân hàng thương mại có khả năng chuyển hóa các khoản tiền gửi nhỏ lẻ và có thời hạn ngắn thành các khoản tín dụng lớn và có thời hạn dài hơn để đầu tư vào những ngành đang phát triển và góp phần vào việc bình quân hóa tỉ suất lợi nhuận trong nền kinh tế.
- Kích thích sản xuất và lưu thống hàng hóa. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán trong nền kinh tế và tạo ra một hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt khá hoàn hảo. Nó giảm chi phí thanh toán và giải quyết được mâu thuẫn về sự không tin tưởng giữa người bán và người mua đặc biệt là trong hoạt động ngoại thương bằng các phương thức thanh toán như: thư tín dụng (L/C), Séc bảo chí, nhờ thu kèm chứng từ, thể tín dụng… thêm vào đó, các khoản nhàn rỗi trong xã hội được ngân hàng huy động và đâu từ trở lại vào sản xuất kinh doanh và tiêu dùng nhờ đó có thể đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa tiền tệ. Từ đó, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, ngân hàng thương mại phải hoạt động theo một cơ chế phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nhà nước và xuất phát từ chính sách chế độ chung do ngân hàng trung ương quy định hoạt động của ngân hàng thương mại được quy định thành 3 nghiệp vụ cơ bản sau.
2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
2.1- Nhận tiền gửi
Đây là nhiệm vụ tạo lập vốn và quản lý các nguồn vốn của ngân hàng huy dộng, thông qua đó ngân hàng thực hiện việc tạo lập vốn, tập trung vốn mà chủ yếu thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng, tiền gửi bao gồm các loại như: tiền gửi không ký hạn, tiền gửi ký hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng thu hút một số lượng lớn từ các tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân mở tài khoán tại ngân hàng. Ngân hàng trở thành người thủ quỹ cho vô số khách hàng, thực hiện thu chi theo lệnh của chủ tài khoản. Ngày này ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển hầu hết các tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân đều duy trì tài khoản ở ngân hàng bằng cách trích tiền từ tài khoản của người này chuyển vào tài khoản của người khác. Ngân hàng có được chức năng này vì mọi người nhận thấy lợi ích từ việc gửi tiền vào ngân hàng, nhờ ngân hàng quản lý và chi trả hộ cũng như uý nhiệm cho ngân hàng thu hộ các khoản tiền mà chủ ngân hàng được hưởng lệ phí sẽ an toàn hơn và thuận lợi hơn nhiều so với giữ tiền hay thanh toán bằng tiền mặt.
Tuỳ theo tính chất và mục đích của các khoản tiền gửi mà khách hàng có thể chọn các hình thức gửi tiền phù hợp vừa đảm bảo an toàn. Thực hiện được yêu cầu chi trả vừa đủ đảm bảo có lãi.
Các ngân hàng thương mại với hoạt động nhận tiền gửi có vai trò làm tăng khả năng sinh lợi của đồng tiền và giảm chi phí giao dịch, chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền v.v… Những vai trò này làm cho hoạt động ngân hàng trở thành rất cần thiết đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp, từng các cá nhân nói riêng.
2.2- Tài trợ cho nền kinh tế
Thể hiện việc sử dụng vốn của ngân hàng là nghiệp vụ thông qua đó ngân hàng phân bố nguồn lực của mình để phát triển hoạt động kinh doanh theo mục tiêu đã xác định trong cơ chế thị trường. Sự tồn tại và phát triển luôn gắn liền với nhau, nhu cầu vốn cho sản xuất ngày càng phát triển cũng là do đặc điểm tuần hoàn vốn của nền kinh tế làm cho việc tài trợ vốn cho nền kinh tế cũng phát triển về phương thức tài trợ ngày càng đa dạng thông qua các hoạt động như sau:
a. Hoạt động cho vay hoặc hoạt động tín dụng là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau. Cụ thể là các chủ thể trong nền kinh tế trong quá trình hoạt động kinh doanh hay sản xuất sản phẩm cần phải có thêm vốn để duy trì sản xuất, hay vốn để mở rộng quy mô, ứng dụng tiến bộ KHKT…, do nguồn vốn có hạn, không đủ để đáp ứng. Do đó các chủ thể đó có thể tìm đến các ngân hàng thương mại để tìm kiếm những gì mà họ đang cần, đó là vốn. Các ngân hàng thương mại sẽ nghiên cứu các khả năng, thẩm định các thông tin, và sau đó có thể cho các chủ thể đó vay vốn với những điều kiện mà ngân hàng đó đưa ra. Thông qua sự vận động của vốn, khi đến kỳ hạn họ sẽ thanh toán với ngân hàng thương mại đúng như những gì mà họ đã thoả thuận. Đồng vốn sẽ được hoàn trả hay tiếp tục duy trì, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của chính họ.
b. Hoạt động đầu tư
Tuy nhiên, ngân hàng không sử dụng toàn bộ vốn huy động để cho vay. Một mặt vì hầu hết các khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất đối với rủi ro vỡ nợ, đặc biệt là đối với ngân hàng vừa và nhỏ. Hơn nữa, tất cả các khoản tín dụng đều bị chịu thuế. Như vậy, ngân hàng đều giành một phần huy động để đầu tư vào chứng khoán. Chứng khoán là một khoản đầu tư an toàn, có mức rủi ro sinh lợi và thời hạn phù hợp trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn, bao gồm các loại chứng khoán sau:
+ Tín phiếu kho bạc
+ Trái phiếu kho bạc
+ Chứng chỉ tiền gửi
+ Thương phiếu chấp nhận thanh toán
+ Giấy nợ ngắn hạn
+ Chứng khoán của các công ty
Hơn nữa, ngân hàng cũng có thể đầu tư bằng cách góp vốn trực tiếp vào dự án bằng cách tài trợ chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong ngành công nghệ cao hoặc là tham gia vào dự án của Chính phủ để phục vụ lợi ích kinh tế - xã hội.
c. Hoạt động thuê mua
Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lợi chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các quy định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế.
Hoạt động tài trợ vốn của ngân hàng thương mại có những vai trò tác dụng sau đây đối với nền kinh tế:
- Đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
- Thúc đẩy quá trình tập trung vốn để phát triển sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tạm thời chưa sử dụng nằm phân tán khắp mọi nơi trong tay các doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ và các cá nhân nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
2.3- Các hoạt động trung gian
Do việc thực hiện 2 nghiệp vụ nhận tiền gửi của khách hàng để tài trợ vốn cho nền kinh tế, ngân hàng có thể kiếm được lợi từ chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, ngân hàng cũng có thể kiếm thêm thu nhập từ việc thực hiện các dịch vụ sau:
a. Nghiệp vụ thu hộ - chi hộ và chuyển tiền mang tính chất dịch vụ đơn thuần. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại không cần phải đầu tư thêm vốn mà sử dụng tất cả các điều kiện và phương tiện sẵn có để đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu về thanh toán cho khách hàng.
Nghiệp vụ thu hộ là việc khách hàng lập chứng từ để thanh toán, đề nghị ngân hàng thu hộ một số tiền nhất định từ người khác. Nghiệp vụ chi hộ là việc khách hàng hàng lập uỷ nhiệm chi đề nghị ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của họ để thanh toán cho người khác. Còn nghiệp vụ chuyển tiền do ngân hàng thực hiện khi khách hàng lập giấy uỷ nhiệm đề nghị ngân hàng chuyển một số tiền nhất định đến địa phương khác cho người thụ hưởng. Nhờ việc thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng sẽ thu được một số thu nhập nhất định gọi là lệ phí.
b. Nghiệp vụ uỷ thác bao gồm việc quản lý tài sản theo chúc thư, theo hợp đồng ký kết chuyển quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu,….
Thông qua nghiệp vụ này giúp ngân hàng củng cố và duy trì tốt mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, từ đó có thể đa dạng hoá kinh doanh, thu hút thêm khách hàng mở rộng thêm thị phần hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho khách hàng kinh doanh. Ngân hàng sẽ thu được phí tư vấn từ khách hàng.
c. Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Dịch vụ quản lý tiền mặt là việc ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức kinh tế và cá nhân, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.
d. Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Tuy nhiên, theo pháp luật của một số nước đã cấm ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ này vì sự an toàn đối với hệ thống ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế.
Ngoài ra, còn có nhiều dịch vụ khác như cung cấp các kế hoạch hữu trí, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, quỹ tương hỗ và hỗ trợ…
II. Nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1- Vốn của ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng rồi ngân hàng trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện chức năng của ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng (vốn chủ sở hữu ).
- Vốn tiền gửi của khách hàng
- Vốn vay từ ngân hàng thương mại và NHTW
- Vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư
- Vốn khác.
1.1- Vốn chủ sở hữu (VCSH)
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do có tính chất thường xuyên ổn định của chủ sở hữu, ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục định khác nhau như: Trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định như: (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị…) phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có vai trò quan trọng sau đây:
+ Nó đóng vai trò là một tấm đệm giúp ngân hàng chống lại rủi ro phá sản trong quá trình hoạt động do những rủi ro không lường trước.
+ Nó là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được những khoản tiền gửi đầu tiên để mua cơ sở vật chất đảm bảo việc hoạt động của ngân hàng.
+ Vốn chủ sở hữu có thể tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
+ Nó cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn liền với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới.
+ Vốn chủ sở hữu được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác
Vốn chủ sở hữu nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Theo luật của các tổ chức tín dụng vốn chủ sở hữu là yếu tố cơ bản để xác định các chỉ tiêu an toàn của một ngân hàng thương mại. Như vậy, quy mô và sự tăng trưởng của vốn chủ sở hữu sẽ quyết định đến năng lực và thế phát triển của ngân hàng thương mại. Theo cách phân chia bảng tổng kết tài sản của mình, vốn chủ sở hữu là một bộ phận của tài sản nợ, và một thành phần của nó gắn với loại nghiệp vụ nhất định.
Thành phần chủ yếu nhất trong cơ cấu vốn chủ sở hữu là vốn điều lệ được hình thành từ nguồn: có thể được hình thành dưới hình thức tổng giá trị cổ phiếu thường (đối với ngân hàng cổ phần) hoặc là phần góp của các bên liên doanh (đối với ngân hàng liên doanh) hoặc do ngân sách cấp (đối với ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước). Vốn điều lệ có thể cao hay thấp những mức tối thiểu cho mỗi loại hình ngân hàng thương mại.
Vốn chủ sở hữu cũng có thể bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn bổ sung được tăng lên từ các nguồn sau:
+ Do thặng dư vốn thể hiện phần giá trị thị trường của cổ phiếu vượt quá mệnh giá mà các cổ đông trả cho ngân hàng.
+ Quỹ dự trữ bổ sung được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng thương mại theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo luật lệ ngân hàng của mình nhắm mục đích tăng cường vốn chủ sở hữu ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bổ sung từ lợi nhuận không chia. Quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, khấu hao, thu nhập từ các công ty thành viên,….
1.2- Các khoản tiền gửi mà ngân hàng nhận được từ nền kinh tế
Các khoản tiền gửi là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng nhận được từ các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân trong nền kinh tế thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng để kinh doanh. Bản chất của tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau mà ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn (đối với tiền gửi có