Bảo vệ môi trường được nhận thức từ rất lâu trên thế
giới, song vấn đề này được tập trung giải quyết cả ở
tầm quốc gia và quốc tế chủ yếu trong nửa sau thế kỷ
XX. Những hậu quả của việc tàn phá môi trường ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hội và con
người, đặc biệt phải kể đến nạn sa mạc hóa; ô nhiễm
đất, nước và không khí; hiệu ứng nhà kính v.vẹấu
tranh với những hành vi tàn phá môi trường chưa thu
được hiệu quả cao, cùng với tính chất đặc biệt nguy
hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế
bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn.
52 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2548 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhận thức chung đốI với Tội pham về môi trường và một số vấn đề liên quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận thức chung đốI với Tội pham về môi trường
và một số vấn đề liên quan
TRẦN LÊ HỒNG
Tiến sĩ, Giảng viên khoa Luật Trường ĐH An Ninh
1. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG
Bảo vệ môi trường được nhận thức từ rất lâu trên thế
giới, song vấn đề này được tập trung giải quyết cả ở
tầm quốc gia và quốc tế chủ yếu trong nửa sau thế kỷ
XX. Những hậu quả của việc tàn phá môi trường ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hội và con
người, đặc biệt phải kể đến nạn sa mạc hóa; ô nhiễm
đất, nước và không khí; hiệu ứng nhà kính v.vẹấu
tranh với những hành vi tàn phá môi trường chưa thu
được hiệu quả cao, cùng với tính chất đặc biệt nguy
hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế
bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn. Trong giới hạn
của quốc gia, một trong những mắt xích chủ yếu của
cơ chế này là chính sách hình sự đối với những hành
vi xâm hại môi trường.
Phần lớn các nước trên thế giới đều có những quy
định cụ thể đối với tội phạm về môi trường. Nhiều
nước thể hiện quyết tâm đấu tranh với loại tội phạm
này thông qua những hình phạt hết sức nghiêm khắc.
Cộng hòa các tiểu Vương quốc Ả Rập, khi coi bảo vệ
môi trường là yếu tố chung của quốc gia cho sự phát
triển thịnh vượng của đất nước, mới thông qua Bộ
luật về bảo vệ môi trường với hơn 100 điều quy định
cụ thể các hình phạt đối với hành vi làm ô nhiễm
nguồn nước, đất, gây thiệt hại cho khu bảo tồn. Đặc
biệt, hình phạt cao nhất đối với tội phạm về môi
trường đặc biệt nghiêm trọng là tử hình.
Chính sách hình sự của Việt Nam trong việc bảo vệ
môi trường có sự đột phá quan trọng với việc xây
dựng một chương riêng trong Bộ luật Hình sự năm
1999 cho các tội phạm về môi trường (Chương
XVII).
Trong BLHS năm 1985 chưa thể hiện rõ tính cấp
bách và tầm quan trọng đặc biệt của việc đấu tranh
với các hành vi xâm hại môi trường. Điều này không
chỉ thể hiện qua việc BLHS 1985 chưa dành riêng
một Chương cho các tội phạm về môi trường, mà còn
dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi
trường được gộp lại với những tội phạm khác và
được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm
về môi trường. “Tội vi phạm các quy định về nghiên
cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên trong
lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa Việt
Nam (Đ.179)”, “tội vi phạm các quy định về quản lý
và bảo vệ đất đai (Đ.180)”, “tội vi phạm các quy định
về quản lý và bảo vệ rừng (Đ.181)” trong BLHS
1985 được hiểu là những tội phạm kinh tế và xếp vào
Chương VII “Các tội phạm về kinh tế”. Tương tự như
vậy, tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng
danh lam, thắng cảnh (Đ.216) được hiểu là tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính (Mục C Chương
VIII). Cả BLHS 1985 chỉ có một điều duy nhất trực
tiếp quy định trách nhiệm hình sự cho những hành vi
xâm hại đến môi trường. Đó là Đ.195 “tội vi phạm
các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả
nghiêm trọng”.
Nền tảng của chính sách hình sự về bảo vệ môi
trường của Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong
Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp đã khẳng định việc
bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của mọi
người và toàn xã hội: “Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ
trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân
phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên
và huỷ hoại môi trường” (Đ.29).
Chính sách hình sự về bảo vệ môi trường của Việt
Nam được cụ thể hóa thông qua việc xây dựng những
tội phạm về môi trường cụ thể. Chương XVII BLHS
1999 quy định đối với 10 tội phạm về môi trường: tội
gây ô nhiễm không khí (Đ.182), tội gây ô nhiễm
nguồn nước (Đ.183), tội gây ô nhiễm đất (Đ.184), tội
nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải
hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi
trường (Đ.185), tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho người (Đ.186), tội làm lây lan dịch bệnh nguy
hiểm cho động vật, thực vật (Đ.187), tội huỷ hoại
nguồn lợi thuỷ sản (Đ.188), tội huỷ hoại rừng
(Đ.189), tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật
hoang dã quý hiếm (Đ.190), tội vi phạm chế độ bảo
vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên (Đ.191).
Những hành vi cấu thành tội phạm quy định trong
Chương XVII BLHS là những hành vi xâm hại đến
môi trường có tính nguy hiểm xã hội cao. Điều này
có nghĩa là, không phải tất cả những hành vi xâm hại
đến môi trường đều được quy định trong BLHS.
Những hành vi có tính nguy hiểm xã hội thấp hơn,
chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ
được xử lý bằng các biện pháp khác như áp dụng
trách nhiệm hành chính hay thông qua tuyên truyền,
giáo dục. Với diễn biến phức tạp của đời sống xã hội,
những hành vi xâm hại đến môi trường sẽ được
nghiên cứu thường xuyên giúp cho quá trình hoàn
thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường.
BLHS không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về
môi trường. Phân tích khoa học khái niệm này là khởi
điểm cho việc giải quyết về bản chất tất cả các vấn đề
của trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi trường
là cơ sở phương pháp luận cho quá trình lập pháp đối
với loại tội phạm này. Trong trường hợp không có sự
nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không
thể xây dựng được các hình thức chế tài, phạm vi và
nhiệm vụ của hoạt động phòng ngừa.
Trong các tài liệu nghiên cứu có một số khái niệm tội
phạm về môi trường, song vẫn còn có những điểm
chưa hoàn toàn rõ ràng hoặc đầy đủ. Một số tác giả
cho rằng: “Tội phạm về môi trường là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do những người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến sự bền vững và
ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi
trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường
sinh thái”(1). Trong khái niệm này có hai điểm chưa
được rõ ràng:
- Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra một đặc trưng
hết sức quan trọng của tội phạm nói chung, tội phạm
về môi trường nói riêng, mà được tất cả các nhà luật
học công nhận: “tội phạm là hành vi vi phạm pháp
luật hình sự”. Cũng chính vì lý do này nên khái niệm
sẽ chưa hoàn toàn chính xác. Không có ai nghi ngờ
“Hành vi nguy hiểm cho xã hội” là đặc trưng chung
của các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành
chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật .v.v., vậy khái niệm
nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm
pháp luật hành chính trong lĩnh vực môi trường.
- Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm
giữa đối tượng và khách thể của tội phạm. Khách thể
của tội phạm là những quan hệ xã hội và lợi ích xã
hội bị xâm hại và được chỉ ra rất rõ ràng trong Đ.1
BLHS 1999: “Chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào
các dân tộc, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa”. Đối tượng của tội phạm là những vật của
thế giới khách quan mà hành vi phạm tội trực tiếp tác
động đến. Trên cơ sở phân tích này, có thể khẳng
định “sự bền vững và ổn định của môi trường” là đối
tượng chung của các tội phạm về môi trường và việc
đưa đối tượng này vào khái niệm là chưa hoàn toàn
xác đáng vì có thể dẫn tới đồng nhất với khách thể
“các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi
trường”.
Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đã được đưa
vào giáo trình giảng dạy. Giáo trình của trường ĐH
Luật Hà Nội cho rằng: “Các tội phạm về môi trường
là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy
định của Nhà nước về môi trường, qua đó gây thiệt
hại cho môi trường”(2). Khái niệm này có ưu điểm là
rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng còn có vài điểm cần bàn
thêm:
- Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội
phạm về môi trường trong giáo trình Luật Hình sự
của trường ĐH Luật Hà Nội chưa tạo ra được sự khác
biệt giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực môi trường. Có thể khẳng
định rằng: hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
môi trường cũng là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội vi phạm các quy định của Nhà nước về môi
trường và có khả năng gây hậu quả bất lợi cho môi
trường.
- Việc đưa “thiệt hại cho môi trường” vào trong khái
niệm tội phạm về môi trường có thể dẫn tới sự hiểu
lầm. Yếu tố “thiệt hại” trong cấu thành tội phạm chỉ
bắt buộc đối với những cấu thành tội phạm vật chất.
Những cấu thành hình thức khẳng định việc tội phạm
đã được thực hiện (hoàn thành) ngay khi đã thực hiện
hành vi, bất kể hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay
chưa. Như vậy, sử dụng cấu trúc “gây thiệt hại cho
môi trường” trong khái niệm có thể dẫn tới sự hiểu
nhầm rằng: “tất cả tội phạm về môi trường có cấu
thành vật chất”. Trên thực tế không phải như vậy,
một số tội phạm về môi trường có cấu thành hình
thức như: Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho
người (Đ.186), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ
động vật hoang dã quý hiếm (Đ.190).
- Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rõ khách thể bị
xâm hại. Có thể nói rằng, một trong những đặc trưng
cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là khách thể
giúp phân biệt với các tội phạm khác. Ngay khái
niệm chung về tội phạm tại Đ.8 BLHS Việt Nam
cũng liệt kê những khách thể mà tội phạm theo Luật
Hình sự Việt Nam xâm hại đến. Trong quá trình xây
dựng khái niệm một loại tội phạm cụ thể, để đặc
trưng loại tội phạm này, đồng thời xác định giới hạn,
cần chỉ rõ khách thể chính.
Việc xây dựng khái niệm tội phạm về môi trường
phức tạp còn do cấu trúc của chế định pháp luật hình
sự về bảo vệ môi trường không trùng khớp với hình
thức biểu hiện trong BLHS. Hệ thống các tội phạm
về môi trường theo nghĩa thuần tuý trong BLHS
không hề tồn tại. Nhận định này được minh chứng
bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm trong
chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần
cũng hướng tới việc sử dụng hợp lý và bảo vệ môi
trường. Ví dụ như: Tội vi phạm các quy định về
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Đ.172),
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Đ.173),
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Đ.174),
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
(Đ.175), Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng
(Đ.176), được đưa vào Chương XVI “Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế”. Tuy nhiên, việc sắp xếp
như nêu trên trong BLHS về cơ bản cũng hợp lý vì
khách thể chính của các tội phạm (từ Đ.172 đến
Đ.176) là các quan hệ trong lĩnh vực quản lý kinh tế
của Nhà nước.
Tình trạng khó có thể đưa tất cả các tội phạm có sự
xâm hại đến môi trường vào một Chương trong
BLHS không phải chỉ đối với Việt Nam. Nghiên cứu
pháp luật hình sự của các nước khác cũng có tình
trạng tương tự. Trước thực trạng này và sự thiếu vắng
một khái niệm thống nhất của tội phạm về môi
trường trong pháp luật hình sự, nhiều tác giả nước
ngoài thậm chí đã mở quá rộng khái niệm tội phạm
về môi trường. Điển hình là một số tác giả người Nga
cho rằng tội phạm về môi trường bao gồm tất cả các
tội phạm có quan hệ với những bộ phận của môi
trường thiên nhiên(3). Với cách hiểu rộng như vậy,
khả năng toàn bộ hoạt động tội phạm, bằng cách này
hay cách khác, có thể coi là có sự xâm hại tới môi
trường, hay nói một cách ngắn gọn: tội phạm về môi
trường bao hàm hầu như tất cả các tội phạm cụ thể.
Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn
đưa quan điểm đối với khái niệm tội phạm về môi
trường như sau: “Tội phạm về môi trường là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về
giữ gìn môi trường trong sạch, sử dụng hợp lý những
tài nguyên của nó và đảm bảo an toàn môi trường cho
dân cư”. Khái niệm này không chỉ đặc trưng cho
những tội phạm về môi trường được quy định trong
Chương XVII BLHS Việt Nam, mà nó rộng hơn
nhằm thể hiện được chính sách hình sự của Việt Nam
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có thể coi đây là
khái niệm tội phạm về môi trường theo nghĩa rộng,
còn khái niệm tương ứng theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Chương XVII “Các tội phạm về môi trường”.
Trong các phần tiếp theo sẽ chỉ đề cập đến các tội
phạm về môi trường theo nghĩa hẹp, tức các tội phạm
trong chương XVII BLHS Việt Nam.
2. CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI
TRƯỜNG
Khái niệm chung của tội phạm về môi trường nêu
trong phần 1 giúp chúng ta xác định phạm vi của loại
tội phạm này, cũng như là cơ sở cho việc xây dựng
các tội phạm cụ thể. Để hiểu các tội phạm về môi
trường rõ ràng và cụ thể hơn, đặc biệt nhằm áp dụng
chính xác các quy định tương ứng của BLHS trong
cuộc sống, đòi hỏi phải nghiên cứu cấu thành tội
phạm thể hiện qua: khách thể, mặt khách quan, chủ
thể và mặt chủ quan.
a. Khách thể của tội phạm về môi trường
Khách thể của loại tội phạm về môi trường là những
quan hệ xã hội về giữ gìn môi trường trong sạch, sử
dụng hợp lý những tài nguyên của nó và đảm bảo an
toàn môi trường cho dân cư.
Để hiểu khách thể của tội phạm về môi trường cần
làm rõ khái niệm “môi trường”. Khái niệm này được
đưa ra trong Luật Bảo vệ môi trường, theo đó “Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và thiên nhiên” (K.1
Đ.1). Đặc biệt, Luật không chỉ xây dựng khái niệm
về môi trường, mà còn chỉ rõ những bộ phận cấu
thành của môi trường. “Thành phần môi trường là các
yếu tố tạo thành môi trường: không khí, nước, đất,
âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ,
biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu
sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên
nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các
hình thái vật chất khác” (K.1 Đ.2).
Nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể của tội
phạm về môi trường không giới hạn trong một lĩnh
vực nào, như trong hoạt động kinh tế chẳng hạn. Hậu
quả của những hành vi xâm hại môi trường gây ra
không chỉ đối với hoạt động kinh tế, mà đối với toàn
bộ cuộc sống trên trái đất.
Trên cơ sở phân tích khách thể của loại tội phạm này,
khách thể trực tiếp trong từng tội phạm là những
quan hệ xã hội cụ thể về bảo vệ và sử dụng hợp lý
những bộ phận cấu thành của môi trường, cũng như
đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư. Ví dụ, khách
thể của tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản là các quan hệ
xã hội về bảo vệ và sử dụng hợp lý những nguồn lợi
thuỷ sản, tức các quan hệ về bảo vệ và sử dụng hợp
lý sông, hồ, biển.
Đối tượng của tội phạm về môi trường chính là đối
tượng của các hành vi xâm hại đến môi trường. Đó là
những bộ phận cấu thành của môi trường mà đã được
liệt kê trong K.1 Đ.2 Luật Bảo vệ môi trường. Những
bộ phận này hình thành và tồn tại một cách tự nhiên,
hoặc có sự kết tinh của lao động con người nhưng
vẫn tồn tại trong thiên nhiên hoặc được đưa vào thiên
nhiên để thực hiện chức năng sinh vật và những chức
năng tự nhiên khác. Chính bởi bản chất gắn với tự
nhiên nên những thành phần cấu thành môi trường có
thể phân biệt được với những đối tượng tội phạm
khác mà thường được biết dưới dạng “hàng hoá” hay
“tài sản”.
b. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường
* Các tội phạm về môi trường có thể được thực hiện
bằng hành động hoặc không hành động vi phạm các
quy định của pháp luật về sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệ môi trường. Các hành
vi tội phạm về môi trường rất đa dạng: gây ô nhiễm
môi trường, huỷ hoại tài nguyên môi trường, không
thực hiện quy tắc bảo vệ môi trường, gây dịch bệnh
v.v. Những hành vi trong mặt khách quan của tội
phạm về môi trường là sự thể chế hoá trong lĩnh vực
hình sự những hành vi bị nghiêm cấm quy định trong
Luật Bảo vệ môi trường:
1- Đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa
bãi gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh
thái;
2- Thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào
không khí; phát bức xạ, phóng xạ quá giới hạn cho
phép vào môi trường xung quanh;
3- Thải dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá
giới hạn cho phép, các chất thải, xác động vật, thực
vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch bệnh
vào nguồn nước;
4- Chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới
hạn cho phép;
5- Khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật
quý, hiếm trong danh mục quy định của Chính phủ;
6- Nhập khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng tiêu
chuẩn môi trường; nhập khẩu, xuất khẩu chất thải;
7 - Sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ
huỷ diệt hàng loạt trong khai thác, đánh bắt các
nguồn động vật, thực vật. (Đ.29)
Đặc trưng của các tội phạm về môi trường quy định
trong BLHS là thường sử dụng kết cấu dẫn chiếu. Để
xác định việc thực hiện tội phạm về môi trường
thường phải căn cứ vào việc xác định các hành vi vi
phạm các quy tắc về sử dụng nguồn tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường, trong đó các quy tắc này
được quy định trong những văn bản chuyên ngành
khác. Ví dụ, muốn khẳng định hành vi gây ô nhiễm
không khí theo Đ.182, thì cần căn cứ trên cơ sở giới
hạn tối đa được phép thải vào không khí các chất độc,
khói, bụi v.v. Giới hạn này được quy định cụ thể
trong tiêu chuẩn Việt Nam do Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường ban hành (TCVN 5939-1995). Vì
vậy, để có thể áp dụng chính xác BLHS đối với các
tội phạm về môi trường cần phải vận dụng chính xác
các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi
trường, trong đó cần đặc biệt lưu ý một số văn bản
quan trọng như:
- Luật bảo vệ môi trường ngày (27-12-1993);
- Luật bảo vệ và phát triển rừng (12-8-1991);
- Luật tài nguyên nước (20-5-1998);
- Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (25-4-1989);
- Nghị định số 18-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng
Quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý
hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ (17-2-1992);
- Nghị định số 175-CP của Chính phủ về hướng dẫn
thi hành Luật Bảo vệ môi trường (18-10-1994);
- Quyết định số 2920-QĐ/MTg của Bộ trưởng Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc áp dụng
tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường (21-12-1996);
- Quyết định số 2019/1997/QĐ-BKHCNMT của Bộ
trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban
hành quy định những yêu cầu chung về kỹ thuật đối
với việc nhập khẩu các thiết bị đã qua sử dụng (1-12-
1997);
- Quyết định số 10/2001/QĐ-BKHCNMT của Bộ
trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về
việc ban hành tạm thời Danh mục các loại phế liệu đã
được xử lý thành nguyên liệu được phép nhập khẩu
(11-5-2001);
* Tuyệt đại bộ phận tội phạm về môi trường có cấu
thành vật chất (9 trong số 10 tội: Đ.182, Đ.183,
Đ.184, Đ.185, Đ.186, Đ.187, Đ.188, Đ.189, Đ.191).
Để khẳng định tội phạm hoàn thành cần chứng minh
được những hành vi vi phạm gây hậu quả cụ thể.
Trong diễn biến xâm hại môi trường phức tạp và phổ
biến hiện nay, việc xây dựng các tội phạm về môi
trường với cấu thành vật chất chưa phát huy hết được
vai trò của mình đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi
trường. Những hành vi tàn phá, huỷ hoại môi trường
sống cần được ngăn chặn ngay từ đầu và có những
biện pháp chế tài kiên quyết. Đây là một trong số
những điều kiện cơ bản để giữ vững sự tăng trưởng
ổn định về mặt kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc
sống ngày càng được cải thiện. Việc nghiên cứu và
sửa đổi các quy định của BLHS về bảo vệ môi trường
thông qua việc xử lý ngay từ khi thực hiện các hành
vi vi phạm là hết sức cần thiết. Căn cứ để xử lý hình
sự các hành vi này không dựa vào đánh giá hậu quả
mà có thể bằng việc xác định quy mô vi phạm. Nói
một cách ngắn gọn: nên thay đổi tính chất của cấu
thành các tội phạm về môi trường sang cấu thành
hình thức là chủ yếu.
Hậu quả trong các tội phạm về môi trường được quy
định trong các cấu thành cơ bản là “hậu quả nghiêm
trọng”. Ngoài ra trong một số cấu thành với tình ti