Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhận thức của giáo viên về rối 
loạn hành vi ở học sinh tiểu học. Khảo sát thực trạng nhận thức của giáo viên về
rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học tại các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu 
học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung Văn và trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa 
bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng 
cao nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học và cách thức 
tác động phù hợp nhằm hạn chế các hành vi đó.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: khactoan_hl | Lượt xem: 2613 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học tại một số trường trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở 
học sinh tiểu học tại một số trường trên địa bàn 
huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội 
Trần Văn Hô 
Trường Đại học Giáo dục 
Luận văn ThS ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên 
Người hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc 
Năm bảo vệ: 2012 
Abstract: Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhận thức của giáo viên về rối 
loạn hành vi ở học sinh tiểu học. Khảo sát thực trạng nhận thức của giáo viên về 
rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học tại các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu 
học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung Văn và trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa 
bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng 
cao nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học và cách thức 
tác động phù hợp nhằm hạn chế các hành vi đó. 
Keywords: Tâm lý học; Tâm lý học trẻ em; Trẻ vị thành niên; Rối loạn hành vi; 
Học sinh 
Content 
Lý do chọn đề tài 
 Sức khỏe thể chất, tâm thần và xã hội phát triển cân bằng, hài hòa là cơ sở cho một 
cá nhân có tri thức, có nhân cách đưa lại các hiệu quả của lao động có hữu ích cho phát 
triển xã hội và cá nhân. Nếu sức khỏe tâm thần có vấn đề sẽ dẫn tới thiếu hứng thú trong 
công việc, học tập, vui chơi, suy nghĩ không hợp lý, thiếu thực tế và dẫn đến các hành vi 
lệch lạc, quấy nhiễu cuộc sống của cá nhân và các thành viên trong gia đình và xã hội, 
cản trở sự phát triển chung. Vì thế, hiện nay trên thế giới, chương trình sức khỏe tâm thần 
cho trẻ em là một trong ba chương trình lớn của chăm sóc sức khỏe (tai nạn, nhiễm 
khuẩn, sức khỏe tâm thần), cùng với những biến động về kinh tế, văn hóa, xã hội, đô thị 
hóa nhanh, toàn cầu hóa về thông tin, nền công nghiệp phát triển, cạnh tranh thị 
trường…đã tác động nhiều đến tâm lý con người nói chung. 
 Giống như người lớn, trẻ em gặp phải những vấn đề sức khỏe tâm thần liên quan 
đến suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Những vấn đề sức khỏe tâm thần nặng có thể ảnh 
hưởng đến kết quả học tập, dẫn đến những xung đột bạn bè, gia đình, xã hội, lạm dụng 
thuốc, bạo lực và thậm chí là tự tử. 
 Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, 
nhịp độ cuộc sống theo đó tăng nhanh, đồng nghĩa với việc áp lực công việc nặng nề hơn 
cho mọi đối tượng. Và trẻ em vô tình đã bị đẩy vào những tình huống buộc phải tự lập 
cũng như phải đối mặt với quá nhiều tác động có hại do mặt trái của nền kinh tế thị 
trường, trong khi các em chưa có cơ hội được trang bị đủ những kiến thức cần thiết về 
tâm lý. 
Từ Liêm là một huyện ngoại thành của Thành phố Hà Nội có tốc độ đô thị hoá rất 
nhanh, bên cạnh nhiều thuận lợi cũng không tránh khỏi những mặt còn tồn tại trong quá 
trình phát triển. Từng lúc từng nơi, các vấn đề về sức khỏe tâm thần của học sinh rất phức 
tạp. Hệ thống trường học trong huyện luôn phải đương đầu với các đối tượng học sinh có 
vấn đề về sức khoẻ tâm thần: những học sinh học kém, học sinh cá biệt thường gây nhiều 
rắc rối do những phản ứng khác nhau cho giáo viên và gia đình mà chủ yếu là do mức độ 
nhận thức của giáo viên, gia đình và cộng đồng còn hạn chế. Bởi vì, mỗi môi trường và mỗi 
ngành đều có những đặc thù riêng nên không phải khi nào và ở đâu mọi người cũng sẵn sàng 
quan tâm tìm hiểu. 
Thực tế cho thấy đã có nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần cho trẻ em 
trong các trường học, các trung tâm hỗ trợ tâm lý học đường song các vấn đề về sức 
khỏe tâm thần ở học sinh, đặc biệt là rối loạn hành vi vẫn chưa được giáo viên quan tâm 
quan tâm nhận thức rõ ràng và đầy đủ để có cách ứng xử phù hợp với các em cũng như 
lên kế hoạch phòng ngừa và can thiệp sớm. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu đề tài: 
“Nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học tại một số trường 
trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội. ” nhằm nâng cao sức khỏe tâm thần 
và giúp các em có một sức khỏe tâm thần khỏe mạnh, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn 
diện về thể chất và nhân cách. 
2. Mục đích nghiên cứu 
 Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh 
tiểu học tại một số trường tiểu học trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội, đề xuất 
các biện pháp nâng cao nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học và 
cách thức tác động phù hợp nhằm hạn chế các hành vi đó. 
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi 
ở học sinh tiểu học 
3.2. Khảo sát thực trạng nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu 
học tại các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu học Mỹ Đình, trường tiểu học 
Trung Văn và trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố 
Hà Nội 
 3.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của giáo viên về rối loạn 
hành vi ở học sinh tiểu học và cách thức tác động phù hợp nhằm hạn chế các hành vi 
đó 
4. Khách thể nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu 
4.1. Khách thể nghiên cứu: rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học và nhận thức của giáo 
viên tiểu học về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học 
4.2. Khách thể điều tra, khảo sát: giáo viên tại các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường 
tiểu học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung Văn và trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa bàn 
huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội. 
4.3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp tác động đến nhận thức của giáo viên tiểu học về 
rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học. 
 5. Giả thuyết khoa học 
 Nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học chịu ảnh hưởng của 
nhiều yếu tố khác nhau: môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ chuyên môn, quan 
điểm sống... 
 Nhận thức của giáo viên có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phòng ngừa và khắc 
phục rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học. Tại một số trường tiểu học nhận thức giáo viên 
về rối loạn hành vi còn chưa được đầy đủ và rõ ràng, giáo viên chưa có những ứng xử và 
cách thức tác động phù hợp để hỗ trợ, khắc phục rối loạn hành vi ở học sinh. 
6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài 
 Do thời gian làm luận văn có hạn nên chúng tôi tiến hành thực hiện tại các trường 
tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung Văn và trường tiểu 
học Xuân Đỉnh trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội 
7. Phƣơng pháp nghiên cứu 
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 
 Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến sức khỏe tâm thần, đến rối loạn hành vi để xây 
dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. 
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 
 - Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu câu hỏi 
 Xác định thực trạng nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học 
tại các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung Văn 
và trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội 
- Phương pháp trò chuyện, trao đổi 
 Trò chuyện, trao đổi với giáo viên tiểu học về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học 
trong việc làm rõ thực trạng nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu 
học tại các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung 
Văn và trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội 
 - Phương pháp quan sát: hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi trong 
việc làm rõ thực trạng nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học tại 
các trường tiểu học Cổ Nhuế A, trường tiểu học Mỹ Đình, trường tiểu học Trung Văn và 
trường tiểu học Xuân Đỉnh trên địa bàn huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội 
- Phương pháp toán học 
 Sử dụng phương pháp toán học để xử lý số liệu đã thu thập được, từ đó có thể đưa ra 
những kết luận về thực trạng nhận thức của giáo viên về rối loạn hành vi ở học sinh tiểu 
học. 
8. Cấu trúc của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ 
lục, nội dung luận văn được trình bày trong 03 chương: 
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu 
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu 
Chương 3: Kết quả nghiên cứu 
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 
 1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề 
 1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài 
- Về vấn đề nhận thức 
Trước khi cách tiếp cận nhận thức ra đời, các nhà tâm lý học hành vi cho rằng nhận 
thức của con người bắt đầu khi có kích thích tác động vào họ theo công thức S-R (kích 
thích- phản ứng). 
Cuối năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ 20 các nhà tâm lý học đã chứng minh 
rằng, không phải cứ có kích thích là gây ra được hành vi. Cùng lúc đó cách tiếp cận hành 
vi đã bộc lộ nhiều điểm yếu vì nó không để ý đến các quá trình nhận thức, các quá trình 
tâm hồn. Bản chất của cách tiếp cận nhận thức là quan sát người khác và quan sát hành vi 
của mình. 
 Thuyết về các giai đoạn phát triển nhận thức của Piaget, khi nghiên cứu về sinh học 
ông phát hiện ra quá trình sinh học gần như gắn liền với quá trình tâm lý và coi là quá 
trình phát triển duy nhất. Luận thuyết của Piaget cung cấp cho chúng ta một cái khung để 
nhìn thấy sự phong phú và phức tạp của nhận thức. 
 Các công trình nghiên cứu về nhận thức có cống hiến to lớn từ các nhà tâm lý học 
Liên Xô. Đó là các tên tuổi như: E.N.Xôcônôp, A.A.Ximiecnôp, N.A.Mensunxkaia, 
X.L.Rubinstein... Các công trình nghiên của các nhà tâm lý học này cho thấy: nhận thức 
là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong não người, quá trình đó đi theo 
nhiều mức độ khác nhau và họ cũng đã có những nghiên cứu rất sâu về các mức độ của 
quá trình nhận thức. 
 - Về vấn đề rối loạn hành vi 
 X.N.Miaxisshev đã có công trình nghiên cứu rối nhiễu hành vi và chỉ ra: rối nhiễu 
hành vi là một căn bệnh của nhân cách có căn nguyên tâm lý. 
 Xixon, M.M Model và L.L.Galpêrin (1935) đã chỉ ra rằng: theo sự gia tăng theo 
tuổi, những xung đột nội tâm do phát triển khả năng tự đánh giá, yêu cầu với bản thân và 
khả năng xử lý nội tâm. 
 Trong tập phân loại bệnh quốc tế 10F do các nhà tâm thần có uy tín trên thế giới 
nghiên cứu và phân loại, đã phân loại rối nhiễu hành vi thành 3 mục và lưu trong phân 
mục F9: F91- 0 : rối nhiễu hành vi khu trú trong môi trường gia đình. F91-1 : rối nhiễu 
hành vi ở những người kém thích ứng với xã hội. F91-2 : rối nhiễu hành vi ở những 
người còn thích ứng với xã hội. 
 Trong DSM 4 - tập phân loại bệnh của các nhà tâm lý học Mỹ, đã đưa ra 15 tiêu 
chuẩn chẩn đoán và chia thành 4 nhóm chủ yếu: xâm hại người khác hay súc vật, phá 
hoại tài sản (hành vi xâm hại gây tổn thất tài sản), lừa đảo hay trộm cắp, vi phạm nghiêm 
trọng các luật lệ. 
 1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước 
 - Về vấn đề nhận thức 
 Ở Việt Nam vấn đề nhận thức cũng được nhìn nhận như một đối tượng cần nghiên 
cứu. Tuy nhiên chưa có những công trình nghiên cứu sâu về vấn đề này. Các nghiên cứu 
chỉ mang tính chất định nghĩa, khái niệm và những ứng dụng chỉ được khái quát trên bình 
diện lý luận và phương pháp nghiên cứu một cách căn bản trong tác phẩm tâm lý học (tập 
10 do Phạm Minh Hạc chủ biên), tác giả cho chúng ta hiểu rõ khái niệm về nhận thức, 
các cách phân loại nhận thức và các mức độ nhận thức. Trong cuốn “Những khía cạnh 
trong tâm lý học quản lý”. Mai Hữu Khê cho rằng: các sự vật, hiện tượng diễn ra trong 
thực tế có mối quan hệ tương hỗ với thế giới bên trong và tâm lý của con người, đặc biệt 
là nghiên cứu về cảm giác của ông, cảm giác là công dụng nhất nối liền ý thức với thế 
giới bên ngoài còn tư duy là nguồn gốc chủ yếu của sự nhận thức. 
 - Về vấn đề rối loạn hành vi 
 Năm 1989, Viện tâm thần học Việt Nam đã nghiên cứu 124.194 thanh thiếu niên thì 
có tới 21.960 em có biểu hiện rối nhiễu hành vi. Giáo sư Nguyễn Việt đã nghiên cứu và 
đưa ra một số phương pháp chuẩn đoán và điều trị rối nhiễu hành vi. Giáo sư Đặng 
Phương Kiệt cũng đã nghiên cứu nhiều về rối loạn hành vi, ông đã chỉ ra rằng: nguyên 
nhân dẫn đến rối loạn hành vi là stress gia đình, được hiểu là những căng thẳng trong gia 
đình do cha mẹ ly dị, mất người thân, do bố mẹ trộm cắp... 
 Bác sĩ Nguyễn Văn Siêm là người tham gia giảng dạy bộ môn Tâm lý học lâm sàng 
của khoa Tâm lý học trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, 
cũng là một trong những người đã nghiên cứu rất nhiều về rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành 
niên. Từ những công trình nghiên cứu của mình và qua tham khảo những công trình nghiên 
cứu khác, ông đã đưa ra những lý luận chung về rối nhiễu hành vi ở trẻ em và thanh thiếu 
niên, những lý luận này hiện đang sử dụng làm giáo trình học tập cho sinh viên khối tâm lý 
học lâm sàng trong khoa. 
 1.2. Một số khái niệm cơ bản 
 1.2.1. Khái niệm nhận thức 
 Nhận thức, thái độ, hành vi là ba mặt cơ bản trong đời sống tâm lý con người, chúng 
có quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không ngang bằng nhau, đồng thời có quan hệ chặt 
chẽ với các hiện tượng tâm lý khác. 
 Trong cuộc sống, để tồn tại, thích ứng và phát triển con người buộc phải tiếp nhận 
phản ánh và đáp lại những kích thích trong hiện thực. Vì vậy hoạt động nhận thức là hoạt 
động có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình sống và hoạt động của con 
người. 
 Tác giả Nguyễn Khắc Viện trong tâm từ điển tâm lý học định nghĩa: Nhận thức là 
một quá trình tiếp cận, tiến gần đến chân lý nhưng không bao giờ nhận thức hết hiệu lực, 
phải thấy dần đến cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực để đi hết bước này đến bước 
khác. 
 K.K.Platonov định nghĩa: Nhận thức là một quá trình tiếp nhận những tri thức chân 
thực trong thế giới khách quan trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội. 
 Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê: Nhận thức được coi là một quá trình 
hoặc kết quả sự phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, là quá trình con người 
nhận biết, hiểu biết về thế giới khách quan hoặc kết quả của quá trình đó. 
 Mặc dù nhìn nhận và nhấn mạnh các góc độ khác nhau trong nội hàm khái niệm 
nhận thức nhưng hầu hết tất cả các tác giả đều thống nhất những khía cạnh sau trong nội 
hàm khái niệm này 
 Nhận thức là một quá trình 
 Một hiện tượng tâm lý được coi là một quá trình tâm lý, nó có mở đầu, diễn biến và 
kết thúc một cách rõ ràng. 
 Với tư cách là một quá trình tâm lý, các hiện tượng tâm lý được biểu hiện và phát 
triển trong một hệ thống kế tiếp nhau của các mức độ, trong một diễn trình về mặt thời 
gian. Sự phát triển theo một quá trình không chấp nhận sự nóng vội đốt cháy giai đoạn. 
 Với tư các là một mặt của đời sống tâm lý của con người. Nhận thức là một quá trình 
tâm lý xét cả dưới góc độ bản thân của các quá trình nhận thức cũng như sự phát triển 
nhận thức của các nhân và sự phát triển nhận thức của các nhân và sự phát triển nhận thức 
của loài người. 
 Trong các cấp độ nhận thức của con người, các quá trình nhận thức từ nhận thức cảm 
tính đến nhận thức lý tính mặc dù khác nhau rõ ràng cả về cấp độ, cơ chế và kết quả của 
sự phản ánh nhưng đều giống nhau ở chỗ được diễn ra vào thời điểm khởi đầu hay bắt đầu 
xuất hiện khi có một vài sự vật hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan của con 
người. 
 Dưới góc độ phát triển tâm lý cá nhân, sự phát triển nhận thức của một các nhân là 
quá trình cá nhân tiếp thu lĩnh hội nhũng tri thức của loài người và quá trình cá nhân tự 
sáng tạo để củng cố bổ sung để phát triển tri thức của loài người, diễn ra với những cấp độ 
và các giai đoạn phát triển khác nhau. 
 Nhận thức là sự phản ánh về hiện thực. Hơn thế nữa đây không phải là sự phản ánh 
máy móc, giản đơn mà là sự phản ánh sáng tạo. 
 Từ những định nghĩa của các tác giả khác nhau về nhận thức và sự phân tích trên có 
thể đưa ra khái niệm nhận thức như sau: “Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan 
vào não người thông qua quá trình sống và hoạt động”. 
1.2.2. Giáo viên tiểu học 
 Giáo dục tiểu học nhằm đạt đến mục tiêu : "... giúp học sinh hình thành những cơ sở 
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và 
các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở " ( điều 27, mục 2, 
chương II, luật giáo dục ) có thể nói bậc tiểu học như cái nền nhà của ngôi nhà kiến thức 
của mỗi con người. Do vậy lao động sư phạm của giáo viên tiểu học cũng sẽ mang những 
đặc thù riêng biệt. 
 Giáo viên tiểu học là người có uy tín, là "thần tượng" đối với tuổi nhỏ. Lời thầy là sự 
thuyết phục, cử chỉ của thầy là mẫu mực, cuộc sống và lao động của người thầy là tấm 
gương đối với các em. 
1.2.3. Đặc điểm học sinh tiểu học 
1.2.3.1. Đặc điểm về mặt cơ thể 
 - Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay 
đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,... 
 - Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận 
động như chạy, nhảy, nô đùa,... 
 - Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng 
1.2.3.2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống 
 * Hoạt động của học sinh tiểu học 
 + Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các 
trò chơi vận động. 
 + Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia 
đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa... 
 + Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của 
lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,... 
1.2.3.3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ) 
* Nhận thức cảm tính 
 - Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát 
triển và đang trong quá trình hoàn thiện. 
 - Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang 
tính không ổn định. 
 * Nhận thức lý tính 
 - Tư duy mang màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. 
 - Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non 
nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. 
 * Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học: hầu hết học sinh 
tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo 
 * Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học 
 Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều 
khiển chú ý còn hạn chế.Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều 
chỉnh chú ý của mình. 
 * Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học: loại trí nhớ trực quan 
hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic. Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc 
phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Giai đoạn lớp 4,5 
ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. 
 * Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học 
 Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của 
người lớn. Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành 
mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở 
thành nét tính cách của các em. 
1.2.3.4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học 
 Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự 
vật hiện tượng sinh động, rực rỡ. 
1.2.3.5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học 
 Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà 
trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau 5 năm 
học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ. 
1.2.4. Một số rối nhiễu tâm lý thường gặp ở trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học 
1.2.4.1. Hành vi nổi loạn 
 Chủ yếu gặp ở trẻ trai, ở những những em gặp khó khăn khi phải chịu đựng trách 
nhiệm về những hậu quả hành động do chúng gây ra thì chúng lại ứng xử không chấp 
nhận, tạo nên sự nổi loạn gây lo buồn cho người khác. 
1.2.4.2. Tặng động giảm chú ý 
Trẻ bị tăng động/giảm chú ý thường hay bị đãng trí và không thể hướng dẫn làm việc gì. 
Chúng thường hay phá phách và không yên, bồn chồn chạy nhảy thái quá. 
1.2.4.3. Rối loạn tâm thần thể c