Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua là kêt quả là kết quả cuả quá trình phát triển điểm háo pháp luật về dân sự, đáp ứng nhu cấu bức xúc cuả xã hội của quản lý Nhà nước trong tình hình phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Là bộ luật lớn của nước ta, có phạm vi rông lớn và điều chỉnh nhiều mối quan hện xã hội. Bộ luật dân sự là đối tượng nghiên cứu quan trọng của nghành luật học, đòi hỏi nhiều công sứ của các nhà nghiên cứu khoa học luật.
Việc nghiên cứu các chế định pháp lý trong Bộ luật dân sự là một viêc làm cần thiết trong quá trình nâng cao dân trí pháp luật của nhân dân, củ thể là nâng cao sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn những vấn đề
22 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những biện pháp và hướng hoàn thiện pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua là kêt quả là kết quả cuả quá trình phát triển điểm háo pháp luật về dân sự, đáp ứng nhu cấu bức xúc cuả xã hội của quản lý Nhà nước trong tình hình phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Là bộ luật lớn của nước ta, có phạm vi rông lớn và điều chỉnh nhiều mối quan hện xã hội. Bộ luật dân sự là đối tượng nghiên cứu quan trọng của nghành luật học, đòi hỏi nhiều công sứ của các nhà nghiên cứu khoa học luật.
Việc nghiên cứu các chế định pháp lý trong Bộ luật dân sự là một viêc làm cần thiết trong quá trình nâng cao dân trí pháp luật của nhân dân, củ thể là nâng cao sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn những vấn đề
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.
1, Khái Niệm chung
Thế nào là bộ phận cơ thể người theo TS Phùng Trung Tập xét về mặt sinh học: “ Bộ phận cơ thể người là những thành tố cấu thành sự thống nhất của một cơ thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng trao đổi chất giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật của tự nhiên”.
Có quan niệm khác lại định nghĩa theo cách liệt kê đối tượng, hộ cho rằng: “ Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể như mắt, tay, chân, gan, thận, tim hoặc phần khác của cơ thể” đây là hai cách hiểu khác nhau.
Hai loại định nghĩa này đều làm nổi bật lên thế nào là bộ phận cơ thể người, nhưng việc đưa định nghĩa nào vào trong luật thì các nhà làm luật phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng.
2, Cơ sở lý luận
Con người sinh ra đã có quyền sống, quyền tự do…đó là quyền con người khi họ sống trong một Nhà nước nhất định thì quyền con người của họ luôn được đảm bảo thừa nhận và quyền hiến bộ phận cơ thể người , hiến xác sau khi chết cũng là một bộ phận quyền con người. Do đó, lẽ tất nhiên nó cũng được Nhà nước thùa nhận và bảo vệ.
Con người có quyền quyết định những gì thuộc về mình như quyền nhân thân, con người có quyền bảo vệ tên tuổi, danh dự, nhân phẩm, giữ gìn sức khỏe…bộ phận cơ thể người, đối với xác sau khi chết, nó cũng là một bộ phận của quyền nhân thâ. Do đó, con người cũng có quyền được hiến, nhận bộ phận cơ thể người sau khi chết.
Về mặt sinh học con người là một thể thống nhất gồm nhiều bộ phận hợp lại để hoạt động các bộ phận đấy, các cơ quan đấy phải thực hiện quá trình trao đổi chất. Tuy nhiên không phải ai sinh ra các bộ phận cơ thể cũng hoàn thiện mà có những người họ bị khuyết thiếu một bộ phận nào đó hoặc có người sinh ra họ phat triển binh thường nhưng vì một lý do nào đó họ phải cắt bỏ một phần cơ thể của mình và bộ phận cơ thể đó có thể cần cho mục đích nghiên cứu khoa học. Mặt khác trên thực tế có những người do tai nạn hoặc vì tình thương vì sự nhân đạo họ tự nguyện hiến bộ phận cơ thể mình cho nhười khác hoặc họ cũng có thể tự nguyện hiến xác, hiến bộ phận cơ thể mình sau khi chết để cứu chữa bệnh cho người khác hoặc nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu khoa học.
Về mặt pháp lý Quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người đã được quy đinh trong Hiến Pháp 1992 và Bộ luậ Dân sự 1995 và lần đầu tiên Quyền hiến bộ phận cơ thể người; hiến xác sau khi chết được thừa nhận và quy định ở Điều 33 Quyền hiến bộ phận cơ thể; Điều 34 Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Điều 35 Quyền nhận bộ phận cơ thể người.
3, Cơn sở thực tiễn .
Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều trường hợp con người do tai nạn, do sự kiện bất ngờ dấn đến nhiều trường hợp chết lâm sàn hoặc chết thực sự. Tuy nhiên một số bộ phận cơ thể của họ vẫn còn sống và vẫn có thể dùng để cứu chữa người bệnh hoặc dùng để nghiên cứu khoa học.
Thực tế cũng cho thấy rất nhiều người còn sống họ cũng tình nguyện hiến các bộ phận cơ thể của mình để cứu người bệnh trong cơn nguy kịch. Ở nước ta thì việc cha, mẹ hiến để chữa trị cho con cái hoặc những người thân thích với nhau là không hiếm…Nhưng nếu có quy định pháp lụt về vẫn đề này thì số người hiến sẽ không dùng lại ở phạm vi hẹp như trên mà có nhiều người hiến hơn nữa và đương nhiên là có nhiều người bệnh được cứu sống Bên cạnh có một số người muốn sau khi mình chết đi thi thể cuả họ sẽ không bị chôn vùi một cách vô ích lãng quyên cùng với cát bụi mà họ muốn hiến cho các trung tâm nghiên cứu y học hoặc cho người bệnh nhằm mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học.
Cùng với sụ phát triển kinh tế là mặt trái của nó, môi trường ôi nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, bệnh tật ngày càng phát sinh nhiều và ngày càng nguy hiểm như bệnh viêm gan A, viêm gan B, teo thận, tim mạch…do đó nhu cầu về ghép nộ tạng ngày càng tăng cao trong khi đó người hiến tạng lại không nhiều.
Hơn nữa ở nước ta, những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao thông hàng năm là rất lớn trung bình mỗi tháng là 1000 người chết. Đó là một điều không may nhưng một người có thể cứu được ít nhất 7 người.
Tại Hà Nội cũng có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng do không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng. Còn về nhu cầu mô, chúng ta có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc.
Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến nay mới chỉ ghép được 1.500 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các Tổ chức phi chính phủ (khoảng 50 - 100 giác mạc/năm) mà không có nguồn của người cho giác mạc.
Trên thế giới một số nước như Pháp, Mỹ… đã cho phép hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết và đã đem lại hiểu quả rất ấn tượng, mỗi người bệnh sau khi được ghép thận, gan, có khả năng sống cao hơn, lâu dài hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với chạy thận nhân tạo…
Từ những lý luận cũng như thực tiễn cho thấy việc quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết là haonf toàn đúng đắn và hợp lý trong bối cảnh đất nước ta hiện nay.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.
Bộ luật Dân sự 2005 đã đề cập đến một vấn đề hoàn toàn mối mà từ khi lập pháp đế nay ổ nước ta vấn chưa dề cập tới. Đố là lần đầu tiên trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết, trong đó đã đề cập đến hai vấn đề đó là Quyền hiến bộ phận cơ thể ngươi khi còn sống được quy định ở Điều 33 va hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết được quy đinh tại Điều 34 ngoài ra để đảm bảo việc thực hiện quyền nàu có hiểu quả trong Bộ luật này cũng quy định quyền nhân bộ phận cơ thể người được quy định ở Điều 35.
Tại Điều 33 Bộ luật Dân sự 2005: “ cá nhân được quyền hiến bộ phận cơ thể của mình cho người khác vì mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Việc hiến bộ phận cơ thể người được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Đặc biệt việc thừa nhận Quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của cá nhân khi cá nhân đó chết đi được quy định tại Điều 34 của Bộ luật dân sự 2005: “ Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học.
Việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Qua đó ta thấy ở đây pháp luật cũng chỉ quy định rấ khái quát, chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, hiến bộ phân cơ thể sau khi chết chứ không quy đinh củ thể về vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe đối với người hiến…Tuy nhiên trong bộ luật cũng quy định việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể người thực hiện theo quy định của pháp luật do đó ta dán tiếp hiểu rằng vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe … sẽ được quy định trong một văn bản khác. Tuy vậy chúng ta cũng biết được rằng thực tế nếu không có những quy định về những vấn đề củ thể này thì việc thừa nhận quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết có lẽ chỉ mang tính danh nghĩa mà khó có thể sử dụng được.
Tuy vậy khi thừa nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người thì nó sẽ đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu quả trong các trươngg Đại Học, các trung tâm nghiên cứu y học. Bên cạnh quy định về quyền được hiến bộ phận cơ thể người , nhiến xác sau khi chết. Bộ luật Dân sự 2005 còn quy định về quyền được nhận bộ phận cơ thể người Điều 35 quy định: “ Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người khác vì mục đích thương mại”.
Đây là quy định phù hợp vì đương nhiên đã có quy định cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể thì luật cũng phải quy định cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể người. Nhưng ta thấy vấn đề này Bộ luật Dân sự cũng quy định chung chung nên rất khó thực hiện trên thực tế bởi vì sễ dẫn đến hiểu không thống nhất cá nhân có quyền nhận ở đây, phải chăng là bất cứ ai, ở bất kỳ đổ tuổi nào cũng được hay cá nhân phải ở đổ tuổi nhất định , không bị mất năng lực hành vi dân sự những vấn đề này luật chưa quy định.
Trong Điều 35 luật cũng nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người vì mực đích thương mại. Nhà lập pháp nước ta cũng như một số nước như: Pháp, Đức..họ không coi bộ phận cơ thể người là hàng hóa do đó không được trao dổi mua bán trên thị trường. Bện cạnh đó có một số quan điểm khác cho rằng nên thừa nhận việc hiến mô tạng vì mục đích thương mại vì họ cho rằng đó là quyền của mỗi cá nhân khi họ cho đi một bộ phận cơ thể, họ có quyền nhận lại một lợi ích vật chất nhất định đó là quền hoàn toàn chính đáng và bảo đảm người mua, kẻ bán, người trung gian đều có lợi trong vấn đề này. Mặt khác nhu cầu ghép bộ phận cơ thể trên thực sự là rất lớn, nhiều người sẵn sàng bổ tiền ra để có được thứ mình cần.
Bên cạnh hai quan niệm đó thì có quan niệm dung hòa hơn là họ cho rằng nên thừa nhận việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết vì mục đích thương mại nhưng trong một giới hạn nhất định, trong trường hợp nhất định.
Quyền hiến xác: do cá nhân quyết định
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban thường vụ (UBTV) QH, ông Vũ Đức Khiển (chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật) cho biết xung quanh nội dung quyền hiến xác, có ý kiến ĐB QH đề nghị bổ sung qui định hộ gia đình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của người thân sau khi chết.
Một số ý kiến khác lại muốn việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể phải có sự đồng ý hoặc không có sự phản đối của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên của người đã chết. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc, UBTVQH cho rằng đây là một quyền nhân thân của cá nhân, do cá nhân tự quyết định. Mặt khác, vấn đề này còn tương đối mới, thực tiễn phát sinh chưa nhiều, do vậy Bộ luật dân sự chỉ nên dừng ở những qui định mang tính nguyên tắc.
Ngay sau khi Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006. Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch số 21 ngày 12/1/2007 về việc Triển khai thi hành Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác với mục đích xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết và phổ biến kịp thời, đầy đủ nội dung của Luật đến tất cả các tầng lớp nhân dân cũng như đối với đội ngũ cán bộ ngành y tế. Đồng thời, tiến hành xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác nhằm hướng dẫn thi hành đến mọi đối tượng. Theo đó, Nghị định quy định về tổ chức, điều kiện thành lập và hoạt động của ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Các đối tượng áp dụng sẽ là các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến tổ chức, thành lập và hoạt động của ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người tại Việt Nam. Như vậy, với việc ban hành các văn bản hướng dẫn cùng với 4 chương và 30 điều của Dự thảo Nghị định đã quy định rõ về một số điều của Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Qua đó, giúp người dân, lực lượng cán bộ công nhân viên Nhà nước, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, viên chức ngành y tế nắm bắt tốt những nội dung chính của luật, góp phần nhận thức và tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tới mọi tầng lớp cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn, đơn vị, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và xã hội. Đồng thời, nâng cao tự giác, chủ động tìm hiểu, chấp hành pháp luật nhằm tạo sự chuyển biến trong ý thức của mọi tầng lớp nhân dân, tiến tới trở thành một nét văn hóa của người dân Việt Nam.
Cấm tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến, người được ghép trái quy định của pháp luật
Ngày 15/6, Bộ Y tế đã tổ chức hội nghị triển khai thi hành Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Theo đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học. Đồng thời, sẽ nghiêm cấm các hành vi lấy, ghép, sử dụng, lưu giữ mô, bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại; tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật..
III. THỰC TRẠNG, GHÉP MÔ, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI HOẶC HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.
1, Vai trò và ỹ nghĩa của việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết.
Việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết có vai trò vô cùng quan trọng:
- Đối với người bệnh ở nước ta số liệu thống kê hàng năm có hàng nghìn người bị suy thận mãn cầu phải chạy thận nhân tạo do đó hàng năm người bệnh phải tiêu tốn một khoản tiền vô cùng lớn cho vẫn đề này. Đặc biệt là những người mắc những bệnh về gan, tim mạch, nếu không có bộ phận cơ thể để cấy ghép kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy việc thừa nhận quyền hiến và nhận các bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết là tia hy vọng giúp có đủ nguồng mô tạng để cấy, ghép cứu chữa kịp thời, giúp người bệnh vượt qua cơn nguy kịch về tính mạng và kéo dài tuổi thọ cho họ. Đồng thời giảm được những chi phí thuốc thang, chi phí về chạy thận nhân tạo và các chi phí không cần thiết khác.
- Đối với người hiến bộ phận cơ thể người,hiến xác sau khi chết những người này họ có thể là người thân của người bệnh cần cấy, ghép, họ cũng có thể là người khác, và họ cũng có thể cho vì mục đích chữa bệnh hoặc có thể cho vì mục đích nghiên cứu khoa học; họ có thể hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết hoặc còn sống. Qua đó việc thừa nhận quyền này có vai trò vô cùng quan trọng đối với người hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết, nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với người hiến xác họ thể hiện được tình cảm cũng như long nhân đạo bao dung của mình đối với người bệnh và đối với nghành giải phẫu học. Những người hiến này họ cũng được Nhà nước, cơ sở y tế hoặc người bệnh đền bù cho sự đồng ý cao cả đó. Từ đó ta thấy nó thể hiện tính nhân văn sâu sắc của dân tộc ta đồng thời góp phần tạo điều kiện cho việc hình thành ngân hàng mô tạng ở nước ta trong tương lai không xa.
- Đối với nhà nước: Việc thừa nhận hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết nó thể hiện Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến quyền lợi, sưchs khỏe nhân dân. Nó còn giúp nhà nước xây dựng một hệ thống y tế phát triển để phục vị cho quyền nayd có hiểu quả, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu chữa bệnh của nhân dân và nghiên cứu khoa học, việc thừa nhận quyền này cũng có vai trò to lớn đưa nước ta hội nhập với thế giới.
2, Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết.
Tuy đã đổi mới gần 20 năm nhưng phải đến Bộ luậ Dân sự 2005 mới thừa nhận va quy định tại Điều 33, Điều 34 mặc dù việc hiến cấy ghép bộ phận cơ thể người đã được nghiên cứu và thực hiện trước đó hàng chục năm.
Trong thực tế số người cần được ghép tạng trên thế giới nói chung và ở việt nam nói riêng ngày càng nhiều. Do đó chỉ thừa nhận việ hiến bộ phận cơ thể người khi còn sống một cách tự nguyện là không thể đáp ứng được nhu cầu cấy ghép mô tạng. Dô đó luật cần phải thừa nhận thêm việc hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết.
Ngoài ra việc lấy bộ phận cơ thể, lấy xác của người chết để chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học cũng đã được quy định và thực hiện khá hiểu quả ở một số nước phát triển như Mỹ, Pháp, Bỉ…
Tuy nhiên ở Việt Nam vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Trước năm 2005 về mặt pháp lý chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này tức là chưa có văn bản pháp luật nào thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể hiến xác sau khi chết. Do vậy thực tiễn bày từ năm 2005 trở về trước ít người hiến xác hoặc trường hợp trước khi chết họ đồng ý hiến song khi họ chết đi gia đình họ không đồng ý.
Sau hơn một năm kể từ khi ra đời, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được coi là chỗ dựa về mặt luật pháp và có tính quyết định đến sự thúc đẩy việc phát triển trong lĩnh vực ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam.
Thực trạng về nhu cầu ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam.
Ở Việt Nam trong những năm qua, nhu cầu được ghép mô và nhu cầu có xác để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy là rất lớn và ngày một gia tăng. Cả nước có khoảng 5.000 – 6.000 người suy thận mạn cần được ghép thận. Riêng Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan. Do không có nguồn của người hiến nên cho đến nay đã có hàng trăm người phải sang Trung Quốc, Singapore và một số nước khác để ghép thận, ghép gan. Còn ở trong nước chỉ có khoảng 300 ca được ghép thành công, trong đó chủ yếu là ghép thận chiếm tỷ lệ cao nhất sau đó đến ghép tế bào máu (ghép tủy) và ghép gan. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương. Trong khi đó, trên thế giới các nguồn lấy mô, bộ phận cơ thể người để ghép đều có nguồn từ người cho sống cùng huyết thống và từ người cho sống không cùng huyết thống. Đó là những người bị chết não hay bệnh nhân đã ngừng tim.
Nhu cầu ghép giác mạc rất cao, theo số liệu điều tra năm 2007, tỷ lệ mù lòa trong cả nước là 0,59% (trong đó có 5,6% mù do sẹo giác mạc và mù do đục giác mạc chiếm tỷ lệ 8,9%, trong tổng số người mù do các nguyên nhân khác nhau) ước tính sơ bộ tương đương với khoảng 27.800 người mù do các bệnh lý giác mạc đòi hỏi cần có giác mạc để ghép, nhưng trên thực tế không có đủ nguồn của người cho giác mạc.
Tuy nhiên, không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, tình trạng thiếu mô, bộ phận cơ thể người để ghép luôn tạo nên những sức ép lớn, theo số liệu của WHO (năm 2002) thì trên thế giới có 36.857 triệu người mù, trong đó 5,1% là mù lòa do bệnh giác mạc và mỗi năm có khoảng 10 triệu người bị mù do hỏng giác mạc, nhưng chỉ khoảng 120.000 người được ghép giác mạc. Riêng châu Á, ước tính mỗi năm có khoảng 1 triệu bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn cuối nhưng chỉ có khoảng 60.000 bệnh nhân được ghép thận (50% từ người chết não và 50% từ người cho sống).
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đủ mạnh, đồng bộ để tạo cơ sở cho việc hiến, tặng mô, bộ phận cơ thể người đáp ứng nhu cầu khẩn thiết ngày nay, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho cán bộ y tế khi tiến hành lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và đó cũng chính là lý do để Quốc hội đã thông qua Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007.
Một số chế định
Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác là một đạo luật đặc biệt quan trọng trong ngành y tế, vừa mang tính tự nguyện vừa mang tính nhân đạo sâu sắc. Luật khẳng định quyền được hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác đối với tất cả mọi người từ đủ 18 tuổi trở lên, không phân biệt người đó là người Việt Nam hay người nước ngoài nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đều có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi người hiến đó đang còn sống (hiến da, xương, giác mạc, phổi, thận, gan…) hoặc hiến sau khi người đó đã chết và kể cả hiến xác vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
Khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống (hoặc người đã chết nhưng có nguyện vọng dâng hiến khi còn sống), cơ sở y tế nhận được thông báo sẽ có trách