Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự
gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ này, bắt nguồn từ
các điều kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước. Trong tiến trình đó, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc -người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm nhận thấy tầm
quan trọng của mối quan hệ này, với các hoạt động cách mạng của mình đã đặt nền
móng vững chắc phát triển thành quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Từ bao đời qua, Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau
như làng trên xóm dưới. Nhân dân Việt Nam thường nói láng giềng tối lửa tắt đèn
có nhautương tự như cách nhân dân Lào gọi nhân dân Việt Nam là bản cạy hươn
khiêng(bản kề, nhà cạnh). Quan hệ Việt Nam –Lào, Lào –Việt Nam là mối quan hệ
nhân hòa, nảy sinh từ đời sống thích ứng với tự nhiên và dựng xây xã hội của biết
bao thế hệ cộng đồng dân cư hai nước có nhiềulợi ích tương đồng, cao hơn hết là
vận mệnh hai dân tộc gắn bó với nhau rất khăng khít và được phát triển thành quan
hệ đặc biệt chưa từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế.
Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam hình thành nên
không hề do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một hiện
tượng nhất thời mà bắt nguồn từ vị trí địa – chiến lược của hai nước, từ bản chất
nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có cùng lợi ích cơ bản về độc lập, tự
chủ và nguyện vọng chính đáng thiết tha về hòa bình và phát triển. Quan hệ truyền
thống hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam được nâng thành quan hệ đặc biệt
kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và sau đó (tháng 10 năm 1930), Đảng được
đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Nhân dân cách mạng Lào sau này
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4837 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Minh Chiến
trang 1
CHỦ ĐỀ 1:
Những nhân tố hình thành, quyết định mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt
Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam
Lê Minh Chiến
trang 2
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự
gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ này, bắt nguồn từ
các điều kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước. Trong tiến trình đó, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm nhận thấy tầm
quan trọng của mối quan hệ này, với các hoạt động cách mạng của mình đã đặt nền
móng vững chắc phát triển thành quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Từ bao đời qua, Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau
như làng trên xóm dưới. Nhân dân Việt Nam thường nói láng giềng tối lửa tắt đèn
có nhau tương tự như cách nhân dân Lào gọi nhân dân Việt Nam là bản cạy hươn
khiêng (bản kề, nhà cạnh). Quan hệ Việt Nam –Lào, Lào –Việt Nam là mối quan hệ
nhân hòa, nảy sinh từ đời sống thích ứng với tự nhiên và dựng xây xã hội của biết
bao thế hệ cộng đồng dân cư hai nước có nhiều lợi ích tương đồng, cao hơn hết là
vận mệnh hai dân tộc gắn bó với nhau rất khăng khít và được phát triển thành quan
hệ đặc biệt chưa từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế.
Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam hình thành nên
không hề do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một hiện
tượng nhất thời mà bắt nguồn từ vị trí địa – chiến lược của hai nước, từ bản chất
nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có cùng lợi ích cơ bản về độc lập, tự
chủ và nguyện vọng chính đáng thiết tha về hòa bình và phát triển. Quan hệ truyền
thống hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam được nâng thành quan hệ đặc biệt
kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và sau đó (tháng 10 năm 1930), Đảng được
đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Nhân dân cách mạng Lào sau này.
Lê Minh Chiến
trang 3
Phần 1
Tổng quan chung về đường biên giới Việt Nam – Lào
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10
tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh
phía Lào là: Phong Sa Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly
Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.
Cột mốc biên giới 605 trên biên giới Việt Lào
1. Đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên:
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10
tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh
phía Lào là: Phỏng Sả Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly
Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.
Phần lớn tuyến biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đi qua đỉnh hoặc triền
núi và qua rừng rậm nhiệt đới, so với mặt nước biển nơi thấp nhất vào khoảng
300m, cao nhất vào khoảng 2.700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung bình
khoảng 500m, có nơi cao trên 1000m. Giữa hai nước có những dãy núi cao hình
thành một đường biên giới tự nhiên: phía Bắc từ A Pa Chải trở xuống là dãy Pu
Xam Sẩu, phía Nam từ Thanh Hoá trở vào là dãy Trường Sơn. Một số đèo đã trở
thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các đoạn biên giới khác, hầu hết là
núi non hiểm trở, đi lại khó khăn.
Dân cư sống hai bên biên giới đa phần là nhân dân các dân tộc ít người, sống
thưa thớt tại các làng bản rất xa nhau và xa đường biên giới. Đời sống vật chất và
Lê Minh Chiến
trang 4
tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc của hai bên còn nhiều thiếu thốn và lạc
hậu. Giao thông đi lại giữa hai bên và trong khu vực biên giới của từng bên rất khó
khăn, hầu như chưa có đường giao thông cơ giới (trừ một vài khu vực cửa khẩu;
đông dân cư; một số đường có từ thời chiến tranh; hoặc có đường lâm nghiệp mới
mở theo thời vụ đã xuống cấp nhiều…).
Các khu vực gần biên giới có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế đối với hai
nước. Nhân dân hai nước ở khu vực biên giới từ lâu đã có sẵn mối quan hệ dân tộc,
thân tộc gần gũi, tối lửa tắt đèn có nhau và gắn bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
2. Lịch sử hình thành đường biên giới Việt Nam – Lào:
Thời Pháp thuộc, biên giới giữa Việt Nam - Lào được xác định bằng các
Nghị định của Toàn quyền Đông Dương (Nghị định năm 1893, Nghị định năm
1895, Nghị định năm 1896; Nghị định năm 1900; Nghị định năm 1904; Nghị định
năm 1916).
Đồng thời với việc điều chỉnh đất đai theo các Nghị định của Toàn quyền
Đông Dương, thực dân Pháp đã tiến hành điều chỉnh đường biên giới và thể hiện
trên bản đồ Bonne tỉ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương.
Biên giới Việt Lào ổn định thúc đẩy hợp tác phát triển giữa hai quốc gia.
Sau năm 1975, hai nước nỗ lực đàm phán về biên giới lãnh thổ (02/1976)
thống nhất nguyên tắc lấy bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông
Dương in năm 1945 để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước; nơi nào không có
Lê Minh Chiến
trang 5
bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương năm 1945 thì dùng bản đồ in trước hay sau đó
một vài năm.
Ngày 18/07/1977, Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được
đại diện hai nhà nước Việt Nam và Lào ký tại Thủ đô Viêng Chăn. Việc đàm phán
thành công và ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một thắng lợi to lớn
của hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước, đánh dấu một bước quan trọng
trong quá trình xây dựng biên giới Việt Nam - Lào trở thành biên giới hoà bình,
hữu nghị, ổn định và hợp tác phát triển lâu dài.
Bộ Tư lệnh BĐBP Việt Nam - Cục Biên giới và Bản đồ Lào: Tăng cường
hợp tác quản lý, bảo vệ biên giới
Năm 1978, hai bên bắt đầu tiến hành phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên
giới Việt Nam - Lào và hoàn thành công tác này vào năm 1987. Theo đó, trên toàn
tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã xây dựng được một hệ thống mốc quốc giới với
số lượng 199 mốc. Đồng thời trong giai đoạn này, hai nước đã giải quyết xong các
vấn đề phát sinh liên quan đến việc giải quyết biên giới giữa hai nước như chuyển
giao đất, bàn giao dân và tài sản giữa hai bên… phù hợp với luật pháp quốc tế,
thông lệ quốc tế và phản ánh đúng thực tế đường biên giới lịch sử hình thành giữa
hai nước.
Các kết quả trên đã được hai bên ghi nhận trong Hiệp ước bổ sung Hiệp ước
Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư về việc phân
giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định
thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới
quốc gia Việt Nam và Lào (16/10/1987).
Lê Minh Chiến
trang 6
Sau khi hoàn thành cơ bản công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa vào
năm 1987, hai bên đã ký Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 01/03/1990 và Nghị
định thư bổ sung Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 31/08/1997 nhằm tạo cơ sở
pháp lý đầy đủ cho công tác bảo vệ và quản lý biên giới giữa hai nước.
Hệ thống mốc quốc giới lúc đó được xây dựng trong giai đoạn hai nước còn
đang gặp nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật hạn chế nên chưa đáp
ứng được yêu cầu của một hệ thống mốc chính quy, đảm bảo tính ổn định lâu dài.
Mật độ mốc quá thưa, bình quân trên 10 km một mốc (cá biệt có những nơi
trên 40 km một mốc). Vì vậy, đường biên giới trên thực địa ở một số nơi không rõ
ràng, nên lực lượng quản lý và nhân dân hai bên biên giới không biết rõ được
đường biên giới.
Các mốc được thiết kế và xây dựng chưa phù hợp với điều kiện địa hình, địa
chất, khí hậu ở khu vực biên giới cũng như kích thước mốc nhỏ, chất lượng mốc
chưa cao…, nên hầu hết các mốc giới đã xuống cấp và hư hỏng. Đến nay, hầu hết
các mốc đã phải gia cố phần nền móng; có mốc đã phải sửa đi sửa lại nhiều lần gây
tốn kém nhưng chưa đảm bảo ổn định. Trong những năm qua hai Bên đã mở và
nâng cấp nhiều cửa khẩu cùng với các công trình mới được xây dựng khang trang,
hiện đại, nhiều khu vực dân cư ở gần khu vực biên giới phát triển mạnh mẽ nên hệ
thống mốc cũ không còn phù hợp, không thể hiện rõ đường biên giới trên thực địa,
nhất là ở các cửa khẩu, nơi đông dân cư nhiều người qua lại, gây khó khăn cho
công tác quản lý biên giới.
Xuất phát từ thực tế trên, nhằm phục vụ nhu cầu phối hợp quản lý biên giới
ổn định lâu dài, góp phần củng cố bền vững mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Từ tháng 05/2008, Việt Nam và Lào chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực
hiện công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm
mục đích hoàn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác,
hiện đại, bền vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới. Tổng số mốc tăng dày
và tôn tạo gồm 792 cột mốc với 16 mốc đại, 190 mốc trung, 586 mốc tiểu. Thời
gian thực hiện Kế hoạch bắt đầu từ năm 2008, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực
có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp
tác, giao lưu phát triển kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới.
Ngày 18/01/2008 Việt Nam và Lào đã cùng với Căm-pu-chia cắm mốc ngã
ba biên giới và ngày 26/08/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước xác định
giao điểm đường biên giới giữa ba nước. Ngày 05/09/2008, tại cửa khẩu Lao Bảo -
Đen Sạ Vẳn, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành mốc đôi 605. Đây là cột
mốc đầu tiên chính thức khởi động cho công tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới
Lê Minh Chiến
trang 7
giữa hai nước. Tính đến tháng 02/2011, hai Bên đã xác định được 462 vị trí mốc và
đã xây dựng 333 vị trí mốc. Hai Bên sẽ hoàn thành công tác cắm mốc trên thực địa
vào năm 2012, và hoàn thành Nghị định thư, bản đồ ghi nhận kết quả vào năm
2014.
3. Hợp tác Kinh tế- Đầu tư Việt Lào:
Tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2 nước Việt Nam và
Lào đã báo cáo về tình hình đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, đến hết
tháng 5/2012, có 214 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư sang Lào còn hiệu lực
với tổng vốn 3,45 tỷ USD; Việt Nam tiếp tục là một trong 3 quốc gia đứng đầu
trong số 52 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Lào. Thời gian tới, khả năng tổng
vốn đầu tư tại Lào đạt 4,5 tỷ - 5 tỷ USD.
Trong Năm đoàn kết Hữu nghị Việt- Lào 2012, nhiều dự án lớn như thủy
điện Sekamãn 3 công suất 250MW phấn đấu phát điện vào cuối năm nay; dự án
trồng 10 ngàn ha cao su của Công ty Cao su Đắk Lắk đã khai thác mủ; Lĩnh vực
năng lượng, hiện có 15 dự án với tổng công suất gần 3.400 MW.
Các doanh nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai, Công ty Golf Long Thành, Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam đã đầu tư và cam kết đầu tư các công trình an sinh- xã hội
tại Lào trị giá hơn 50 triệu USD, đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội,
nâng cao thu nhập của người dân nước bạn Lào anh em.
Ký biên bản ghi nhớ tăng cường hợp tác giữa 2 Bộ KH-ĐT Việt Nam - Lào
Lê Minh Chiến
trang 8
Phần 2
NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH, QUYẾT ĐỊNH MỐI QUAN HỆ HỮU
NGHỊ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM-LÀO, LÀO- VIỆT NAM
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam bắt nguồn từ các điều
kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử và truyền thống chống giặc
ngoại xâm của nhân dân hai nước nhưng người đặt nền móng, quyết định mối quan
hệ đặc biệt này chính là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Về các điều kiện tự nhiên, Việt Nam và Lào đều nằm ở trung tâm bán đảo
Ấn-Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Dãy Trường Sơn có thể ví như cột
sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.
Với địa hình tự nhiên này, về đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục
Bắc-Nam. Còn về đường biển, Lào chỉ có thể thông thương qua một số tỉnh miền
Trung Việt Nam. Với điều kiện tự nhiên như thế, Việt Nam và Lào vừa có nhiều
điểm tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt.
Giao lưu văn nghệ quan hệ hữu nghị Việt Nam- Lào, sáng mãi tình anh em
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, để
hợp tác cùng phát triển, hai nước hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau bằng tiềm
năng, thế mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực, thị trường
cũng như sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý.
Ngoài ra, Việt Nam và Lào là những nước loại “vừa” và “tương đối nhỏ”
sống cạnh nhau, lại nằm kề con đường giao thông hàng hải hàng đầu thế giới, nối
liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cho nên
chiếm vị trí địa- chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á.
Mặt khác, bờ biển Việt Nam tương đối dài nên việc bố trí chiến lược gặp
không ít khó khăn. Trong khi đó, dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt
Nam và Lào, được ví như bức tường thành hiểm yếu để hai nước tựa lưng vào
nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn
Lê Minh Chiến
trang 9
then chốt về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và
Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Về các nhân tố dân cư, xã hội, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của
hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này đã chi phối
mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào.
Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt Nam
và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai thác và
chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thủy. Điều này, thêm một lần
nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện
lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá
nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước.
Về nhân tố văn hoá và lịch sử, do quan hệ gần gũi và lâu đời nên nhân dân
hai nước Việt-Lào, đặc biệt là người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá
tường tận và sự giao thương ở đây cũng khá nhộn nhịp. Trong quan hệ giao thương
với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan tâm của mình muốn
hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục
địa.
Các nghệ sĩ hai nước Việt Nam và Lào tham gia "Những ngày Văn hóa Lào tại Việt Nam”
Sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc
của triết lý nhân sinh người Việt cũng như người Lào. Chính trong cuộc sống chan
hoà này, nhân dân hai nước Việt Nam- Lào đã ngày càng hiểu nhau và bày tỏ
những tình cảm rất đổi chân thành với nhau.
Lê Minh Chiến
trang 10
Về nhân tố lịch sử, theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam thì mối quan
hệ Việt-Lào bắt đầu từ những năm 550 dưới thời Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Tiếp
đến vào giữa thế kỷ XIV (năm 1353) những quy ước hoà bình đầu tiên về biên giới
quốc gia đã được xác lập giữa Đại Việt và Lạn Xạng.
Ngoài ra, trong suốt quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427),
nghĩa quân Lê Lợi cũng luôn nhận được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân
Lào ở vùng biên giới. Điều đáng nói là bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong
kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước
vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng.
Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền
thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, nhất là trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm cho mối quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào-Việt Nam càng gắn bó keo sơn.
Từ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào theo con
đường cách mạng vô sản, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào
ngày càng hoà quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong
quan hệ giữa nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc
và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam-Lào, Lào- Việt Nam.
Và chính Người đã cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào
cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng
và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã
hội như mối quan hệ Việt - Lào.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không ít
thách thức. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong
sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam –
Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước
Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam.
Nhận định chung:
- Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của
hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này, đến nay vẫn
tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt
Nam-Lào. Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt
Lê Minh Chiến
trang 11
Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai
thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thuỷ. Điều này, thêm
một lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những
điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa
văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước. Một trong những minh chứng cho
nhận định trên đó chính là hai câu chuyện huyền thoại của hai dân tộc đều xoay
quanh môtíp quả bầu mẹ, đó là: người Lào, thông qua câu chuyện huyền thoại đã
cho rằng các nhóm dân cư: Lào, Thái, Khơmú, Việt đều có chung nguồn gốc. Đặc
biệt, trong câu chuyện này, Khún Bulôm đã dặn dò với các con cháu của Người:
“Các con phải luôn luôn giữ tình thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ
nhau. Các con phải làm cho mọi người noi gương các con và coi nhau như anh
em một nhà, người giàu phải giúp đỡ kẻ nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các
con phải bàn bạc kỹ trước khi hành động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn
nhau”. Còn ở miền tây Quảng Bình và Quảng Trị của Việt Nam, người B’ru cũng
giải thích nguồn cội của các dân tộc Tà Ôi, Ê đê, Xơ đăng, Bana, Khùa, Sách,
Mông, Dao, Tày, Khơme, Lào, Thái, Việt...cũng từ quả bầu mẹ. Hình tượng quả
bầu mẹ đã trở thành biểu tượng cao đẹp, lý giải nguồn gốc và tình đoàn kết keo sơn
giữa các dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Chính vì vậy, đến nay, các dân tộc anh
em sống ở khu vực biên giới hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền
mãi cho nhau những câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà người xưa
để lại.
- Về nhân tố văn hoá và lịch sử: Về nhân tố văn hoá, điều cần phải khẳng
định là do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người Việt và người Lào đặc biệt là
người dân ở vùng biên giới am hiểu về