Thị trường Viễn thông Việt Nam được đánh giá là thị trường có tốc độ phát triển nhanh trên thế giới. Do đó, viễn thông đã trở thành một thị trường hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, và hơn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Cũng chính vì sự hấp dẫn này mà kéo theo nhiều người muốn gia nhập thị trường, từ đó tạo nên tính cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thị trường viễn thông sẽ không còn dễ chơi như thưở ban đầu mà trở nên cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp để tranh giành thị phần. Trong cuộc đua quyết liệt này, doanh nghiệp viễn thông sẽ khó tránh khỏi những rủi ro do thị trường cạnh tranh mang lại. Vì vậy quản trị rủi ro là công tác cần thiết mà các doanh nghiệp cần thực hiện tốt để phòng ngừa những rủi ro tránh những tổn thất mà mình phải gánh chịu. Trước vấn đề này với đề tài “ Những rủi ro do đối thủ cạnh tranh. Đề xuất giải pháp
28 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8320 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những rủi ro do đối thủ cạnh tranh - Đề xuất giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường Viễn thông Việt Nam được đánh giá là thị trường có tốc độ phát triển nhanh trên thế giới. Do đó, viễn thông đã trở thành một thị trường hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, và hơn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Cũng chính vì sự hấp dẫn này mà kéo theo nhiều người muốn gia nhập thị trường, từ đó tạo nên tính cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thị trường viễn thông sẽ không còn dễ chơi như thưở ban đầu mà trở nên cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp để tranh giành thị phần. Trong cuộc đua quyết liệt này, doanh nghiệp viễn thông sẽ khó tránh khỏi những rủi ro do thị trường cạnh tranh mang lại. Vì vậy quản trị rủi ro là công tác cần thiết mà các doanh nghiệp cần thực hiện tốt để phòng ngừa những rủi ro tránh những tổn thất mà mình phải gánh chịu. Trước vấn đề này với đề tài “ Những rủi ro do đối thủ cạnh tranh. Đề xuất giải pháp” Nhóm 8 đã chọn DN Vinaphone để phân tích cụ thể.
Mục lục
I- RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO:
1- Rủi ro.
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất mất mát, nguy hiểm, hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
2. Quản trị rủi ro
Có thể hiểu quản lý rủi ro là một quá trình được tổ chức một cách chính thức và được thực hiện liên tục để xác định (identify), kiểm soát (control) và báo cáo (report) các rủi ro có thể ảnh hưởng đến việc đạt được những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Quy trình quản trị rủi ro
Nhận diện rủi ro:
Xác định được chính xác các nguồn có khả năng phát sinh rủi ro là điều không dễ dàng. Thông thường rủi ro xuất hiện từ các nguồn sau:
Ngân sách- nguồn tài trợ cho dự án
Thời gian thực hiện dự án
Thay đổi về phạm vi và yêu cầu dự án
Khó khăn về kỹ thuật
Hợp đồng giữa các bên
Môi trường, luật pháp, chính trị, văn hoá
Để nhận diện được rủi ro có nhiều kỹ thuật được áp dụng. Các kỹ thuật này giúp cho dự án khoanh vùng và xác định dấu hiệu xuất hiện rủi ro, vừa giúp tránh bỏ xót các dấu hiệu, vừa làm tăng kết quả và độ tin cậy của việc nhận diện rủi ro. Từng kỹ thuật đều có những hạn chế riêng, do đó việc kết hợp các kỹ thuật để có kết quả tốt nhất là cần thiết.
Phân tích và phân loại rủi ro:
Trong thực tế, những rủi ro có thể xảy ra trong 1 dự án là khá nhiều, và việc giải quyết hết tất cả các rủi ro là không cần thiết, cũng như sẽ làm phá sản ngân sách của dự án.
Thông thường người ta áp dụng nguyên tắc 20/80 để xác định và giải quyết những rủi ro quan trọng, những nguyên nhân gốc có ảnh hưởng lớn nhất đến sự thành công của dự án, trong chừng mực cân nhắc cẩn thận ngân sách dự án cũng như 1 số yếu tố đặc biệt khác. Điều này dẫn đến việc dự án phải phân tích để chọn ra những rủi ro cần giải quyết đó.
Kiểm soát rủi ro:
Kiểm soát rủi ro bắt đầu với việc chọn lựa chiến lược và phương pháp đối phó rủi ro. Có nhiều chiến lược và phương pháp đối phó rủi ro khác nhau, tuỳ theo tình huống dự án, môi trường và đặc thù của từng rủi ro. Trong thực tế, các chiến lược phổ biến bao gồm:
Hình: Một số chiến lược và minh hoạ các phương pháp đối phó rủi ro thường gặp
II- Những rủi ro do đối thủ cạnh tranh trong thị trường viễn thông Việt Nam đối với doanh nghiệp Vinaphone
*Giới thiệu về Vinaphone:
Công ty Vinaphone là một công ty thành viên thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) – là công ty nhà nước do Nhà nước đầu tư và thành lập. Cùng với Mobifone- cũng là một công ty thành viên của VNPT, Vinaphone là công ty cung cấp dịch vụ viễn thông di động hoạt động trên băng tần GSM, phủ sóng toàn quốc 61/61 tỉnh thành. Vinaphone được đổi tên từ Công ty Dịch vụ Viễn thông GPC từ năm 2006 ( GPC được thành lập ngày 11 tháng 12 năm 1997 ).
1. Nhận dạng rủi ro: Thị trường Viễn thông di độngViệt Nam – Sự cạnh tranh giữa ba thương hiệu hàng đầu: Vinaphone - Mobiphone - Viettel
Vinaphone từng giữ vị thế số một trong lĩnh vực di động trước khi Viettel tham gia thị trường viễn thông nhưng hiện nay thì chỉ đứng hàng thứ ba nếu tính tổng hợp các mặt từ doanh thu đến hiệu quả và năng lực mạng lưới. Với cùng một điều kiện môi trường như nhau thì rõ ràng doanh thu và năng lực mạng lưới của Vinaphone vẫn kém hơn hai mạng Viettel và Mobifone.
Một vấn đề cần đề cập là dự án BCCS (Billing and Customer Care System) liên quan hệ thống tính cước và khách hàng tập trung của VNPT đã được khởi động từ chục năm trước đây, trải qua rất nhiều thăng trầm nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được khiến các công tác chăm sóc khách hàng, ghép cước các dịch vụ cố định, di động, ADSL gặp không ít khó khăn, các giải pháp đều mang tính chắp vá. Cuối những tháng đầu năm 2012, Nhiều khách hàng đến đóng tiền cước mà không được, xếp hàng cả dãy, máy treo hoặc đáp ứng chậm. Hệ thống BCCS của Vinaphone những tháng cuối năm 2012 đã được đầu tư, cải thiện.
Tham gia thị trường sau VNPT khá lâu, nhưng Viettel thuộc Bộ Quốc phòng đã có những bước phát triển nhảy vọt. Năm 2008, tổ chức đánh giá thương hiệu toàn cầu Intangible Business (Anh) đã xếp Viettel vào vị trí 83/100 nhà khai thác di động lớn nhất thế giới. Theo đó, giá trị thương hiệu này đạt 536 triệu USD, vượt qua cả SingTel, StarHub (Singapore), DiGi (Malaysia) và Indosat (Indonesia).
Trong nước, Viettel thực hiện chiến lược thâm nhập và mở rộng thị trường cho giai đoạn 2011-2015 tại các khu vực thành thị và nông thôn. Viettel xác định nông thôn là địa bàn rộng lớn để giành thị phần với việc triển khai trên 42.200 trạm phát sóng 2G và 3G nhằm đảm bảo mỗi xã trên cả nước có ít nhất 1 trạm phát sóng.
Ở khu vực thành thị, họ tập trung vào sinh viên, học sinh, người lao động phổ thông, nhân viên văn phòng. Chiến lược này được xây dựng trên 4 giải pháp cạnh tranh về giá cước, chất lượng dịch vụ, kênh phân phối và chăm sóc khách hàng.
Mới đây, Viettel đã mua lại EVN Telecom để mở rộng thị phần thêm 1,4%, tận dụng toàn bộ số trạm phát sóng của nhà mạng này cùng 3 cổng kết nối internet quốc tế để tăng tốc độ truyền dẫn cho mạng di động 3G của mình.
Xét về số lượng thuê bao di động, Viettel vẫn đang nắm ngôi quán quân với xấp xỉ 58 triệu thuê bao (thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2011).
Tuy nhiên, với 2 thương hiệu Mobifone và Vinaphone, hiện VNPT vẫn thống lĩnh mảng dịch vụ di động trong nước với hơn 83 triệu thuê bao, chiếm 75% doanh thu của toàn tập đoàn. Với vị thế như vậy, VNPT không dễ để Viettel “ăn” dần vào thị phần của mình.
Mới đây, VNPT đã trình lên Bộ Thông Tin và Truyền Thông đề án tái cơ cấu Tập đoàn. Trong đó, nội dung quan trọng nhất là xin sáp nhập 2 con gà đẻ trứng vàng Mobifone và Vinaphone nhằm tạo đối trọng với Viettel. Việc sáp nhập này đi ngược lại quy định của Luật Cạnh tranh là VNPT không được nắm giữ quá 20% vốn ở 1 trong 2 doanh nghiệp.
èMối nguy hiểm:
- Sự xuất hiện của ngày càng nhiều các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông di động: Thị trường viễn thông di động việt nam có tới 7 nhà mạng, tuy nhiên vẫn có sự phân ngôi khá rõ ràng trong ưu thế dẫn đầu của các nhà mạng, đối thủ chính của Vinaphone là Mobifone và Viettel bởi đây là 2 nhà mạng có thị phần số thuê bao rất lớn, dẫn đầu là Mobifone tiếp đến là Viettel.
- Mức độ cạnh tranh giữa các nhà mạng là rất gay gắt, đây có thể coi là yếu tố môi trường cạnh tranh tác động lớn nhất tới các nhà mạng.
èMối hiểm họa:
- Các đối thủ liên tiếp đưa ra các chiến lược giá rẻ, chiến lược đa dạng hóa sản phẩm với các dịch vụ giá trị gia tăng mới như gói cước có giá hấp dẫn cho trả trước, trả sau, các dịch vụ giá trị gia tăng trên nền tin nhắn SMS ( ringtunes, tải hình ảnh, âm thanh qua soạn tin SMS..)
- Cuộc chạy đua các chương trình khuyến mãi: Rất nhiều các chính sách khuyến mãi như tặng 50% giá trị thẻ nạp, hòa mạng mới được tặng thêm tiền, chính sách giảm giá cước giờ thấp điểm… được các nhà mạng tận dụng triệt để và dai dẳng.
- Đặc biệt kể từ khi “ông lớn” trên trường quốc tế là Beeline thâm nhập vào Vietnam năm 2009 với gói cước Big zero siêu rẻ. Thì các nhà mạng ở Việt Nam không thể không chạy đua giảm giá cước, khuyến mãi và bám đuổi nhau.
- Ba nhà mạng Vietnamobile (092), S-fone (095) và EVN-Telecom (096) có chính sách gói cước giá rẻ và hấp dẫn như gói cước 1 đồng của S-Fone, gói VM-ONE của Vietnamobile. Các gói cước này có lợi cho các chức năng riêng biệt như nhắn tin hoặc gọi điện thoại nội mạng
- Khách hàng với “cơn nghiện” khuyến mãi, giảm giá đã tạo nên áp lực cho nhà mạng, buộc nhà mạng không chỉ chạy đua khuyến mãi với đối thủ cạnh tranh mà còn chạy đua với khách hàng, để chiều khách hàng, giữ chân khách và tìm kiếm khách.
- Việc chạy đua của 3 nhà mạng Viettel, Vinaphone, Mobifone trong việc phân phối Iphone tại Việt Nam.
èNguy cơ:
- Vinaphone mất thị phần, phải chia sẻ “miếng bánh thị phần” với các đối thủ cạnh tranh khác như Viettel, Mobiphone, Vietnamobile, G-tel...
- Khách hàng sẽ so sánh các dịch vụ của các nhà cung cấp khác ngoài Vinaphone từ đó lòng tin của khách hàng với thương hiệu sẽ suy giảm.
- Do suy giảm thị phần nên doanh thu và lợi nhuận của Vinaphone theo đó cũng sẽ thấp
- Gây dựng thương hiệu với khách hàng mới, khách hàng tiềm năng sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức
- Đầu tư từ phía đối tác nước ngoài sẽ bị san sẻ với các đối thủ trong ngành, điển hình như Apple- là người được lợi từ cạnh tranh trong phân phối Iphone giữa Vinaphone và Viettel
- Nguy cơ do việc chạy đua về giá và các chương trình khuyến mãi sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả doanh thu thuần
- Lượng khách hàng ảo sẽ tăng lên gây khó khăn trong quản lý thuê bao
2. Phân tích và đo lường rủi ro: Vinaphone và những rủi ro do đối thủ cạnh tranh
2.1 Những rủi ro do đối thủ cạnh tranh về giá
Giá luôn được coi là vũ khí của các nhà mạng trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường viễn thông. Những doanh nghiệp lớn luôn có lợi thế về cơ sở hạ tầng, vốn và số lượng thuê bao; do đó trong cuộc cạnh tranh về giá họ khó có thể thua thiệt so với các doanh nghiệp nhỏ hay mới tham gia vào ngành với đầu tư thăm dò và số lượng thuê bao nhỏ. Cuộc cạnh tranh về giá diễn ra sôi động chưa từng có giữa các nhà mạng để tranh giành thị phần, đã đem đến lợi ích không nhỏ đến khách hàng, nhưng tồn taị sau đó là những rủi ro không thể lường trước được cho chính doanh nghiệp, đó là những rủi ro đến lợi nhuận, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Trong cuộc chơi này, rủi ro không chỉ đến với doanh nghiệp nhỏ, mới vào ngành mà còn là những doanh nghiệp lớn. Đối với những doanh nghiệp lớn thì đứng trước rủi ro về giảm thị phần và đôi khi cái giá mà họ đưa ra lại là vũ khí chống lại họ. Như Viettel luôn ấn tượng với mạng di động có mức cước rẻ nhất Việt Nam, vì trong chiến lược cạnh tranh, giá như là vũ khí của họ. Trong 4 mạng di động còn lại là Vietnammobile, S-Fone, EVN Telecom và Beeline thì chỉ có Beeline là mạng di động không có gói cước trả sau. Nếu so sánh gói cước trả sau cơ bản thì thấy 3 mạng Vietnamobile, S-Fone, EVN Telecom có mức cước chênh nhau không nhiều. Chẳng hạn Vietnammobile có cước nội mạng là 900 đồng/phút, ngoại mạng cũng là 900 đồng/phút và cước thuê bao là 50.000 đồng/tháng, trong khi đó gói cước Standard S-Fone có cước nội mạng là 918,2 đồng/phút, cước ngoại mạng là 1001,8 đồng/phút và cước thuê bao là 49.000 đồng/tháng. Tương tự như vậy, gói cước E-Mobile của EVN Telecom đang có mức cước nội mạng là 900,9 đồng/phút, ngoại mạng là 1072,79 đồng/phút và cước thuê bao là 50.000 đồng/tháng. Nếu nhìn vào tổng thể của gói cước trả sau này thì Vietnammobile đang là mạng di động có mức cước hấp dẫn hơn một chút.
Rõ ràng, nhìn vào thông số của các gói cước cơ bản của 3 nhà mạng “đại gia” và 4 mạng di động nhỏ có thể thấy, các nhà mạng nhỏ hiện nay gần như không nhiều lợi thế về cước so với các mạng di động lớn, thậm chí còn cao hơn. Đồng nghĩa điều này là thị phần thu nhỏ tới mức các “đại gia” chẳng thèm chú ý tới các hãng nhỏ còn lại. Không có ưu thế về doanh số, các mạng nhỏ chỉ còn trông chờ vào các gói cước nhắm vào thị trường ngách (đối tượng cụ thể) để hy vọng vớt vát được khách hàng. Tuy nhiên, với việc giảm cước đồng loạt tiếp theo của Viettel, rất có thể các hãng nhỏ sẽ đi vào ngõ cụt trong cuộc chiến giữa Viettel, Vinaphone và Mobiphone.
Sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu các nhà mạng đệ trình phương án giảm cước, bức tranh về cước mạng mới được hé mở và đó thực chất chỉ là cuộc chạy đua giữa các ông “trùm” Vinaphone, Mobiphone và Viettel. 10 đồng, một sự chênh lệch quá ít ỏi nhưng đó là một cuộc “đấu trí” giữa các nhà mạng để thực sự trở thành mạng di động có mức cước rẻ nhất.
Thực tế, việc giảm giá cước mà Viettel và các chương trình khuyến mại của họ đã thực sự hấp dẫn khách hàng. Lộ trình giảm giá cước từ 10-15% đưa ra đầu năm 2010 đã khiến khách hàng hài lòng khi giá cước ở thời điểm 1-1-2010 thấp hơn của hai hãng Vinaphone và Mobiphone. Thị phần tăng 30% 1 năm, điều đó đã khiến Vinaphone và Mobiphone áp dụng “đòn phản công” khi đưa ra mức cước thấp hơn Viettel 10 đồng/ phút, đưa Viettel trở thành nhà mạng có mức cước đắt nhất trong 3 mạng di động lớn.
Bên cạnh đó, “tuyệt chiêu” Big Zero của Beeline vẫn còn phát huy tác dụng. Đây như là gói cước độc đáo duy nhất, dài hơi với nhiều ưu đãi. Sự lựa chọn Beeline càng trở nên dễ hiểu hơn vì tính đến đầu tháng 12/2009, Beeline đã mở rộng phủ sóng tới 19 tỉnh thành trên khắp cả nước bao gồm 5 thành phố chính Hà Nội, Đã Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ và 14 tỉnh khác. Bản đồ phủ sóng của Beeline không ngừng được cập nhật lên đến gần 40 tỉnh thành đến cuối năm nay và tiến tới sẽ phủ sóng toàn quốc vào năm 2010.
Trong 4 mạng di động còn lại là Vietnammobile, S-Fone, EVN Telecom và Beeline thì chỉ có Beeline là mạng di động không có gói cước trả sau. Nếu so sánh gói cước trả sau cơ bản thì thấy 3 mạng Vietnamobile, S-Fone, EVN Telecom có mức cước chênh nhau không nhiều. Chẳng hạn Vietnammobile có cước nội mạng là 900 đồng/phút, ngoại mạng cũng là 900 đồng/phút và cước thuê bao là 50.000 đồng/tháng, trong khi đó gói cước Standard S-Fone có cước nội mạng là 918,2 đồng/phút, cước ngoại mạng là 1001,8 đồng/phút và cước thuê bao là 49.000 đồng/tháng. Tương tự như vậy, gói cước E-Mobile của EVN Telecom đang có mức cước nội mạng là 900,9 đồng/phút, ngoại mạng là 1072,79 đồng/phút và cước thuê bao là 50.000 đồng/tháng. Nếu nhìn vào tổng thể của gói cước trả sau này thì Vietnammobile đang là mạng di động có mức cước hấp dẫn hơn một chút.
Rõ ràng, nhìn vào thông số của các gói cước cơ bản của 3 nhà mạng “đại gia” và 4 mạng di động nhỏ có thể thấy, các nhà mạng nhỏ hiện nay gần như không nhiều lợi thế về cước so với các mạng di động lớn, thậm chí còn cao hơn. Đồng nghĩa điều này là thị phần thu nhỏ tới mức các “đại gia” chẳng thèm chú ý tới các hãng nhỏ còn lại. Không có ưu thế về doanh số, các mạng nhỏ chỉ còn trông chờ vào các gói cước nhắm vào thị trường ngách (đối tượng cụ thể) để hy vọng vớt vát được khách hàng. Tuy nhiên, với việc giảm cước đồng loạt tiếp theo của Viettel, rất có thể các hãng nhỏ sẽ đi vào ngõ cụt trong cuộc chiến giữa Viettel, Vinaphone và Mobiphone.
Trước động thái của tất cả các nhà mạng khác, Vinaphone đã triển khai rất nhiều dự án nhằm giành giật lại khách hàng và chiếm lại thị phần đã mất. Có thể so sánh, nếu gói cước trả trước VinaCard của Vinaphone có cước gọi nội mạng là 1180 đồng/phút và ngoại mạng là 1380 đồng/phút thì gói cước Economy của Viettel với gọi nội mạng là 1190 đồng/phút và ngoại mạng là 1390 đồng/phút. Tương tự như vậy, gói cước trả sau của Vinaphone có cước gọi nội mạng là 880 đồng/phút, ngoại mạng là 980 đồng/phút và cước thuê bao tháng là 49.000 đồng/tháng thì gói cước Basic+ của Viettel với gọi nội mạng là 890 đồng/phút và ngoại mạng là 990 đồng/phút và cước thuê bao tháng là 50.000đ/thuê bao. Đặc biệt, gói cước cho đồng nghiệp và gia đình của Vinaphone có mức cước gọi nội và ngoại mạng thấp hơn khoảng 10% so với gói cước tương tự của Viettel.
2.2 Rủi ro do đối thủ cạnh tranh tung các dịch vụ khuyến mãi
Sau giá, khuyến mãi được xem là công cụ thứ hai được các doanh nghiệp viễn thông sử dụng. Về hình thức cạnh tranh khuyến mãi của các nhà mạng không khác là mấy so với cuộc cạnh tranh về giá. Các doanh nghiệp vẫn đua nhau thực hiện khuyến mãi lớn như khuyến mãi tặng 100% giá trị thẻ nạp, rối 150% và cao nhất 200%. “Công cuộc” khuyến mãi của họ được nhiều người coi là cho không khách hàng. Cuộc chạy đua khuyến mãi sôi nổi hơn hết vẫn thuộc về 3 nhà mạng lớn. Trước nguy cơ cạnh tranh làm rối loạn thị trường, “cá lớn nuốt cá bé”, để bảo vệ doanh nghiệp, bộ Thông tin và truyền thông ra quy định các nhà mạng chỉ khuyến mãi 50% giá trị thẻ cào.
Trong khi Viettel đưa ra rất nhiều hạn chế đối với đợt khuyến mại "khủng" của mình thì VinaPhone và MobiFone cho khách hàng thoải mái về thời gian nghe gọi và cũng không phải quy đổi ra phút gọi hay nhắn tin mà tặng tiền trực tiếp vào tài khoản.
Về mức độ khuyến mại, tuy không "khủng" tới mức 150% giá trị thẻ nạp nhưng mức 130% cũng đủ làm cho các khách hàng dùng di động đổ xô đi nạp thẻ. Cũng bởi nguyên nhân này, không ít khách hàng trước vốn đang dùng Viettel đã chuyển sang dùng MobiFone và VinaPhone.
Ngay sau khi bị các mạng khác "phản đòn", Viettel cũng thay đổi với việc khuyến mại đối với thẻ nạp tiền 130% giống hệt như MobiFone và VinaPhone. Liên tiếp các đợt khuyến mại thẻ cào sau đó, nếu như MobiFone, VinaPhone khuyến mại bao nhiêu, Viettel cũng khuyến mại từng đó.
Đầu tháng 4/2010, Mobifone đã gửi tin nhắn khuyến mãi 170% giá trị thẻ nạp đến khách hàng, nhưng không ghi rõ nội dung. Trước thông tin gây sốc trên thị trường, trái với quy định nhà nước, Mobifone đã trả lời rằng khuyến mãi chỉ dành cho những khách hàng kết nối dài lâu với nhà mạng. Trên thực tế, nội dung tin nhắn khuyến mãi không ghi rõ đối tượng khách hàng nào. Điều này đã gây ra bất bình đối với khách hàng Mobifone và đã để lại hình ảnh không tốt, và trước nguy cơ này Mobifone đã phải thực hiện khuyến mãi của mình với tất cả khách hàng. Cũng tương tự Mobifone, Vietnamobile đã “bấm bụng” thực hiện khuyến mãi 100% cho các thẻ nạp có mệnh giá trên 50000 đồng. Nhưng theo điều 5, nghị định 37 hướng dẫn Luật Thương mại quy định: Giá trị vật chất dùng để khuyến mãi cho một đơn vị hàng hóa không được vượt quá 50%. Điều 99 Luật Thương mại nhấn mạnh: Các thương nhân thực hiện khuyến mãi phải công khai thông tin về tên, số điện thoại của đơn vị thực hiện khuyến mãi, thời gian khuyến mãi (bắt đầu, kết thúc), các điều kiện kèm theo… Điều 100 của Luật thì nhấn mạnh các hành vi nghiêm cấm như: Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng…. Như vậy Mobifone và Vietnamobile đã “xé rào” không tuân thủ theo quy định của nhà nước. Điều này có thể tạo ra một tiền lệ xấu, mỗi khi doanh nghiệp cạnh tranh có thể làm sai quy định pháp luật. Đây là một rủi ro pháp luật, khi mà doanh nghiệp có thể mắc phải khi cố gắng cạnh tranh mà quên đi quy định của pháp luật.
2.3 Rủi ro từ chiến lược kinh doanh của đối thủ cạnh tranh.
Chiến lược kinh doanh là chìa khóa quyết định thành công của doanh nghiệp. Và nhất là khi thị trường trở nên cạnh tranh gay gắt, chiến lược kinh doanh lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nhưng những rủi ro mà doanh nghiệp không thể dự báo được có thể làm phá sản chiến lược của doanh nghiệp. Ví dụ: thương vụ IPhone của các nhà mạng di động để phục vụ cho công nghệ 3G của mình. Các nhà mạng đã phải chịu các điều khoản hết sức khắt khe của nhà phân phối Appel để được tham gia vào hệ thống phân phối của hãng. IPhone là một thương hiệu nội tiếng có đẳng cấp do đó thông tin bất cứ doanh nghiệp nào trở thành nhà phân phối sản phẩm của Appel là một cách tăng thêm giá trị thương hiệu. Với việc áp đặt doanh số mà không thông qua nghiên cứu thăm dò thị trường nào. Th