Công nghiệp phát triển đã đưa lại nhiều sản phẩm phục vụ cho con người, nhưng đồng thời nó cũng đưa đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và các chất thải có khả năng làm ô nhiễm môi trường. Công nghiệp càng phát triển, sản phẩm thu được càng nhiều thì môi trường cũng ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam còn là một nước công nghiệp kém phát triển nhưng tốc độ phát triển ngày một nhanh mạnh theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước, vì vậy tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực đã ở mức báo động, đang đòi hỏi sự quan tâm đầy đủ về việc phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường tối đa trong công nghiệp.
Vốn có sự hứng thú trong việc tham khảo, tìm tòi, xem xét các vấn đề về môi trường và ô nhiễm môi trường và là một sinh viên đang học tập, nghiên cứu tại Khoa Quản trị kinh doanh Công nghiệp và Xây dựng cơ bản thuộc Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, em đã lựa chọn đề tài: “Phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” cho bản đề án môn học này. Với những kiến thức lý luận nắm bắt được qua các bài giảng của thầy giáo trên lớp và các thông tin thực tế tìm hiểu từ tài liệu tham khảo, em xin trình bày trước hết là một số vấn đề chung về sản xuất, môi trường và sự tác động của sản xuất đến môi trường. Sau đó, tìm nguyên nhân và giải pháp cho sự nghiệp phát triển công nghiệp ở nước ta gắn với bảo vệ môi trường. Đề án được kết cấu thành hai phần:
ã Chương I: Những vấn đề chung về sản xuất, môi trường và sự tác động của sản xuất tới môi trường
ã Chương II: Thực trạng tác động tiêu cực của sản xuất công nghiệp tới chất lượng môi trường tự nhiên ở nước ta
ã Chương III: Một số giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển sản xuất với bảo vệ môi trường tư nhiên
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1889 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề chung về sản xuất, môi trường và sự tác động của sản xuất tới môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
c
ông nghiệp phát triển đã đưa lại nhiều sản phẩm phục vụ cho con người, nhưng đồng thời nó cũng đưa đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và các chất thải có khả năng làm ô nhiễm môi trường. Công nghiệp càng phát triển, sản phẩm thu được càng nhiều thì môi trường cũng ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam còn là một nước công nghiệp kém phát triển nhưng tốc độ phát triển ngày một nhanh mạnh theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước, vì vậy tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực đã ở mức báo động, đang đòi hỏi sự quan tâm đầy đủ về việc phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường tối đa trong công nghiệp.
Vốn có sự hứng thú trong việc tham khảo, tìm tòi, xem xét các vấn đề về môi trường và ô nhiễm môi trường và là một sinh viên đang học tập, nghiên cứu tại Khoa Quản trị kinh doanh Công nghiệp và Xây dựng cơ bản thuộc Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, em đã lựa chọn đề tài: “Phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” cho bản đề án môn học này. Với những kiến thức lý luận nắm bắt được qua các bài giảng của thầy giáo trên lớp và các thông tin thực tế tìm hiểu từ tài liệu tham khảo, em xin trình bày trước hết là một số vấn đề chung về sản xuất, môi trường và sự tác động của sản xuất đến môi trường. Sau đó, tìm nguyên nhân và giải pháp cho sự nghiệp phát triển công nghiệp ở nước ta gắn với bảo vệ môi trường. Đề án được kết cấu thành hai phần:
Chương I: Những vấn đề chung về sản xuất, môi trường và sự tác động của sản xuất tới môi trường
Chương II: Thực trạng tác động tiêu cực của sản xuất công nghiệp tới chất lượng môi trường tự nhiên ở nước ta
Chương III: Một số giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển sản xuất với bảo vệ môi trường tư nhiên
Chương một
Những vấn đề chung về sản xuất, môi trường và sự tác động của sản xuất tới môi trường
I. Sự tác động của sản xuất và phát triển sản xuất công nghiệp tới môi trường tự nhiên
1.Quá trình sản xuất công nghiệp và phát triển sản xuất công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất_một bộ phận cấu thành nền sản xuất vật chất của xã hội. Công nghiệp bao gồm 3 loại hoạt động chủ yếu:
Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy.
Sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm khác nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội.
Khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong sản xuất và trong sinh hoạt.
Để thực hiện ba hoạt động cơ bản này, dưới sự tác động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân đã hình thành hệ thống các ngành công nghiệp:
Khai thác tài nguyên khoáng sản, động, thực vật.
Các ngành chế biến và sản xuất sản phẩm.
Các ngành công nghiệp dịch vụ sửa chữa.
2. Môi trường tự nhiên và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng môi trường tự nhiên
2.1. Môi trường tự nhiên và các yếu tố hợp thành môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên là toàn bộ những hiện tượng sự vật và điều kiện tự nhiên tồn tại trong mối quan hệ tương tác qua lại và gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất, có liên quan và cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người. Đó là một hệ thống có cấu tạo phức tạp, gồm nhiều phân hệ khác nhau của phần vỏ vũ trụ, phần dưới của tầng khí quyển và tầng địa học.
Ngoài ra, cũng có thể hiểu môi trường tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người, là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là một trong những yếu tố cơ bản nhất của tồn tại xã hội.
Con người cùng các yếu tố cấu thành cơ bản khác như đất đai, nước, không khí, các loại động, thực vật, tài nguyên, khoáng sản; các nguồn lực tự nhiên và các hiện tượng tự nhiên tạo thành một hệ thống luôn vận động, biến đổi theo những qui luật tự nhiên .Giữa con người và môi trường có sự gắn bó hữu cơ chặt chẽ với nhau. Con người là một bộ phận cấu thành quan trọng và tích cực nhất, thường xuyên tác động đến sự vận động và phát triển của môi trường. Con người không thể tồn tại thiếu môi trường và ngược lại, môi trường ở trạng thái phát triển hiện đại, cũng không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu sự tác động có ý thức và sáng tạo của con người. Nhờ hoạt động sản xuất, con người đã tác động vào môi trường tự nhiên, biến tự nhiên thành của cải vật chất phục vụ nhu cầu của mình. Thông qua hoạt động sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đã hình thành hệ thống cơ bản “Sản xuất - Môi trường”. Cùng với sự phát triển, sự tác động qua lại trong hệ thống “Sản xuất - Môi trường” ngày càng trở nên chặt chẽ hơn. Bản thân quá trình hoạt động sản xuất vật chất là một quá trình biện chứng như C.Mác đã nói, đồng thời với quá trình biến đổi các yếu tố tự nhiên thành của cải vật chất phục vụ con người, nói cách khác, là quá trình “vật thể hoá con người”. Khi con người tác động vào tự nhiên, cải tạo, chinh phục tự nhiên để phục vụ mình làm biến đổi tự nhiên; đồng thời môi trường cũng tác động ngược trở lại với con người.
Môi trường tự nhiên là nền tảng cần thiết không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của con người và phát triển sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp.Một mặt nó cung cấp và đảm bảo không gian cần thiết cho sự phát triển của các hoạt động sản xuất công nghiệp, như đất đai, không gian cần thiết cho sự phân bố và tổ chức sản xuất công nghiệp. Mặt khác ,nó là cơ sở nguyên liệu, năng lượng cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Từ các dạng vật chất trong tự nhiên dưới dạng tài nguyên thiên nhiên, qua hoạt động chế biến công nghiệp, chúng trở thành những loại sản phẩm có ích cho con người
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế học môi trường phân biệt ba loại tài nguyên khác nhau. Đó là tài nguyên tự nhiên trong đó một số loại có thể đổi mới, có thể thay thế bằng tài nguyên nhân tạo, một số cần thiết cho sự sống mà không thể thay thế bằng tài nguyên nhân tạo được(tầng ozon ,khí quyển...). Tài nguyên nhân tạo có thể là nhà máy, hầm mỏ, đường xá, cầu cống, nhà cửa, làng mạc... Theo quan điểm kinh tế thị trường, môi trường tự nhiên được coi như những nguồn tài nguyên khan hiếm và vì vậy chúng có giá trị và có thể tính toán được về mặt giá trị giống như các nguồn vốn tư bản khác. Gây thiệt hại cho môi trường cũng như làm giảm nguồn vốn, không sớm thì muộn cũng sẽ làm giảm giá trị của những dịch vụ trong thời gian sau đó. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là vấn đề xã hội mà còn là vấn đề kinh tế. Điều đó có nghĩa là, bảo vệ môi trường tự nhiên là điều kiện khách quan, cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong tương lai.
2.2. Đánh giá và những chỉ tiêu phản ánh chất lượng môi trường tự nhiên
Hiệu quả của phương án bảo vệ môi trường được biểu hiện thông qua mức tiết kiệm chi phí mà xã hội phải đầu tư cho hoạt động bảo vệ, duy trì và tái sản xuất môi trường và các nguồn tài nguyên của môi trường tự nhiên, nhằm bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng môi trường qui định.
Để đánh giá chất lượng môi trường và hiệu quả các phương án bảo vệ môi trường, người ta dùng một hệ thống các chỉ tiêu:
Mức tiềm năng của các nguồn tài nguyên và tình hình sử dụng chúng.
Sự thay đổi trữ lượng tài nguyên do phát triển công nghiệp.
Mức ô nhiễm đất đai, nguồn nước, không khí, sự thay đổi trong thế giới động, thực vật, trong đó có các tiêu thức cụ thể như:
Ô nhiễm khoáng vật như phốt pho, chì
Mức ô nhiễm không khí thông qua các chỉ số tăng của SO2, SO3, CO2, NH3...
Nồng độ các hoá chất độc hại trong nước, đất
Mức độ phóng xạ
Các hiện tượng vật lý như tiếng ồn, độ rung, bụi khói.
Điều kiện môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe con người và năng suất lao động như:
Tỷ lệ tử vong
Tỷ lệ mất khả năng lao động
Đặc điểm phát triển thể lực của nhóm dân cư
Tuổi thọ bình quân
Các loại bệnh thần kinh, dị ứng...
Những chi phí về vốn đầu tư cho việc xây dựng, lắp đặt và duy trì hoạt động của các phương tiện bảo vệ môi trường
Để tính toán được các chỉ tiêu trên, cần tiến hành thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá chất lượng môi trường, trạng thái môi trường trong phạm vi cả nước, từng vùng và đặc biệt là các trung tâm công nghiệp, các khu công nghiệp lớn.
3. Những tác động của sản xuất và phát triển sản xuất công nghiệp tới môi trường tự nhiên
3.1. Những tác động tiêu cực của sản xuất và phát triển sản xuất công nghiệp tới môi trường tự nhiên
3.1.1. Hoạt động sản xuất công nghiệp và vấn đề sử dụng tài nguyên
Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất to lớn, đóng vai trò chủ đạo, quyết định sự phát triển của các ngành khác và của toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động sản xuất công nghiệp có tác động mạnh mẽ nhất, làm biến đổi nhanh chóng môi trường tự nhiên. Các quá trình công nghiệp tạo ra những vòng tuần hoàn chu chuyển mới của vật chất, năng lượng trong hệ thống “Sản xuất - Môi trường”. Hệ thống các ngành, các doanh nghiệp công nghiệp luôn tồn tại trong một môi trường nhất định, khai thác và sử dụng làm biến đổi môi trường. Mối quan hệ giữa sản xuất công nghiệp và môi trường tự nhiên được biểu diễn theo sơ đồ tổng quát sau:
Các doanh nghiệp công nghiệp
Kỹ thuật công nghệ sử dụng
Môi trường tự nhiên
Sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi vật chất từ dạng tự nhiên của nó thành dạng vật chất có giá trị sử dụng khác nhau, là các loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người.. Nguồn tài nguyên khai thác được trong môi trường tự nhiên sử dụng trong sản xuất được biến đổi thành sản phẩm. Nhưng không phải tất cả các tài nguyên khai thác được, sản xuất công nghiệp đều biến thành sản phẩm có ích cho tiêu dùng, mà một phần quay trở lại tự nhiên dưới dạng chất thải công nghiệp. Ngoài ra các sản phẩm do công nghiệp chế biến ra, sau một thời gian đưa vào tiêu dùng cũng bị hư hỏng, mất dần giá trị sử dụng và quay trở lại tự nhiên dưới dạng chất thải tiêu thụ. Như vậy, trong hệ thống “Sản xuất công nghiệp - Môi trường”, những yếu tố đầu vào là tài nguyên của môi trường và các yếu tố đầu ra là chất thải.. Toàn bộ chu trình biến đổi mà sản xuất công nghiệp tác động vào môi trường có thể tóm tắt qua sơ đồ:
Môi trường tài nguyên Sản xuất công nghiệp Chất thải công nghiệp
Sản phẩm có ích
Quá trình tiêu dùng
Chất thải
3.1.2. Những tác động chủ yếu của công nghiệp hiện nay đến môi trường tự nhiên
Ngày nay, các nguồn tài nguyên đang bị con người khai thác và sử dụng quá mức, đang cạn kiệt dần và môi trường tự nhiên đang bị ô nhiễm, nhiều nơi trên thế giới đã diễn ra khủng hoảng sinh thái cục bộ.
Than đá, khí đốt và dầu lửa sẽ không phải là nguồn tài nguyên nhiên liệu vĩnh viễn hàng đầu trên thế giới. Nhu cầu của xã hội nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng đã, đang và sẽ còn rất lớn. Trên thực tế, loài người đã khai thác và sử dụng một khối lượng khổng lồ các nguồn nhiên liệu này. Các nguồn nhiên liệu hoá thạch trong thời gian qua đã đáp ứng được 3/4 năng lượng trên thế giới, trong đó, dầu lửa chiếm vị trí quan trọng. Riêng trong lĩnh vực giao thông vận tải, dầu lửa đáp ứng 97% nhu cầu cần thiết và chỉ riêng lĩnh vực này đã sử dụng tới 50% nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp khai thác và chế biến dầu thế giới. Trong một thế giới phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hoá như ngày nay, nhu cầu về dầu lửa vẫn là rất lớn và tiếp tục tăng cao. Thực tế, theo một số tính toán cho thấy rằng, hiện nay, trữ lượng dầu lửa đủ để cung cấp cho nhu cầu năng lượng trên thế giới trong vòng 43 năm với tốc độ phát triển như hiện nay, trữ lượng khí đốt đủ dùng trong 66 năm và lượng than đá đáp ứng nhu cầu của xã hội trong vòng 235 năm. “Cuộc vật lộn với vấn đề điện năng thế giới” trong “Thông tin chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật, kinh tế”, No2, 1996, tr.1
Tốc độ khai thác, sử dụng các loại tài nguyên động, thực vật dùng cho chế biến công nghiệp nhanh hơn rất nhiều lần khả năng tái sinh của thế giới động, thực vật, đã làm giảm màu xanh trên trái đất. Tình trạng khai thác rừng ồ ạt với qui mô, tốc độ lớn dùng cho công nghiệp chế biến gỗ, đã làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng. Diện tích rừng không ngừng bị thu hẹp. Theo dự tính, cứ với tốc độ khai thác rừng như hiện nay, chỉ sang những năm đầu của thế kỷ XXI, rừng của các nước đang phát triển sẽ không còn nữa. Nhiều loài động, thực vật trên thế giới đã bị tuyệt chủng, khoảng 60 nghìn loài động, thực vật trên thế giới đang trong tình trạng suy thoái. Nhiều nhà chuyên môn đã dự đoán rằng, trong vòng 20-30 năm tới, có khả năng 1/4 số loài sinh vật trên hành tinh chúng ta, nghĩa là khoảng 1 triệu loài bị tuyệt chủng, trung bình mỗi ngày mất khoảng 100 loài. Điều này là nguy cơ dẫn đến những hậu quả không thể lường trước được về sự thất thường của khí hậu, với những thiên tai, bão lũ thường xuyên ở phạm vi rộng lớn và sức tàn phá của nó lớn hơn trước kia rất nhiều.
Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu của các ngành chế biến khác đã tác động trực tiếp to lớn vào môi trường tự nhiên, phá huỷ bề mặt trái đất, làm thay đổi địa hình, nhiều nguồn tài nguyên bị lãng phí. Công nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại còn sử dụng tài nguyên lãng phí rất nhiều. Một lượng chất thải lớn hàng năm được công nghiệp thải ra, trở lại môi trường dưới các dạng lý, hoá tính khác nhau, khả năng phân huỷ chậm chạp, thấp làm tăng độ ô nhiễm môi trường. Công nghiệp hoá chất phát triển ngày một nhanh và các ngành công nghiệp sử dụng hoá chất hàng năm thải vào không khí, đất, nước một lượng chất thải khổng lồ làm ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng.
Tất cả các tác động trên đây của phát triển công nghiệp dẫn đến những hậu quả to lớn với môi trường : mưa axit, hiệu ứng nhà kính, phá vỡ tầng ôzôn, ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí: Lượng ôxy và nguồn nước giảm trong khi các loại khí độc hại như SO2, SO3... tăng rất nhanh.Những hiện tượng đó trên chính là sự phản ứng lại của môi trường tự nhiên trước những tác động tiêu cực mạnh mẽ từ phía hoạt động sản xuất công nghiệp và sự phát triển công nghiệp trên toàn thế giới. Chúng có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con người và sản xuất.
3.2. Phân tích những nguyên nhân cơ bản các tác động của sản xuất công nghiệp làm suy giảm chất lượng môi trường
Nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất dẫn đến ô nhiễm môi trường tăng lên nhanh chóng là do trình độ công nghệ sử dụng trong quá trính sản xuất công nghiệp và trình độ công nghệ xử lý chất thải còn bị hạn chế bởi trình độ khoa học công nghệ hiện tại.
Những ngành khác nhau có mức độ gây ô nhiễm và các loại ô nhiễm khác nhau. Công nghiệp nặng gây ra nhiều ô nhiễm hơn công nghiệp nhẹ. Thông thường, các nước có xu thế chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ các ngành công nghiệp ít chất thải độc hại sang các ngành công nghiệp nặng gây ô nhiễm nhiều và cuối cùng, sang giai đoạn cao của sự phát triển sẽ là các ngành ít gây ô nhiễm hơn như điện, điện tử, máy tổng hợp...
Sự phân bố tổ chức sản xuất công nghiệp chưa hợp lý giữa các vùng lãnh thổ, dẫn đến tình trạng tập trung quá mức công nghiệp vào từng vùng làm tăng nồng độ chất thải công nghiệp, gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nhiều vùng rộng lớn. Trong khi về mặt kinh tế, nguyên tắc phân bố công nghiệp gần các vùng nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, thì yêu cầu bảo vệ môi trường đòi hỏi có sự bố trí hợp lý, cách xa vùng dân cư và nguyên liệu để tránh tập trung quá mức nguồn chất thải công nghiệp độc hại đến đơì sống con người.
Khai thác và sử dụng tài nguyên chưa hợp lý, thậm chí khai thác bừa bãi vì những lợi ích trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài.
Lượng chất thải công nghiệp chưa được quan tâm xử lý tốt. Công nghệ khai thác và xử lý chất thải còn nhiều hạn chế. Qui mô và tốc độ khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường tăng rất nhanh, đặc biệt từ khi công nghiệp hoá trở thành vấn đề toàn cầu. Lượng chất thải tăng lên đi liền với quá trình tăng tốc độ sản xuất công nghiệp. Tốc độ tự phục hồi của tự nhiên chậm hơn nhiều lần so với tốc độ khai thác, sử dụng tài nguyên của con người gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường như phá vỡ cân bắng sinh thái, gây suy thoái và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Tóm lại ,vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu, không phải của riêng một quốc gia nào mà cũng không một quốc gia nào có khả năng thực hiện bảo vệ môi trường thành công một cách biệt lập.
II. Một số nội dung và yêu cầu đối với sản xuất và phát triển sản xuất công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên
1. Trong các chiến lược về phát triển công nghiệp và sản xuất công nghiệp, đều phải có những biện pháp mang tính chiến lược về bảo vệ môi trường tự nhiên
Trước hết, về chiến lược cơ cấu công nghiệp, khi xây dựng chiến lược này, luôn phải tính đến những nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta, việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp không thể tách rời cơ cấu kinh tế thế giới, nhất là cơ cấu công nghiệp của các nước trong khu vực. Chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu đòi hỏi chúng ta phải có những chuyển biến về cơ cấu công nghiệp theo nguyên lý kết cấu nhiều tầng. Khi chuyển từ các ngành công nghiệp truyền thống ít gây ô nhiễm sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất có nhiều chất thải độc hại thì vấn đề tăng ô nhiễm là không thể tránh khỏi. Để hạn chế mức độ ô nhiễm do tác động của phát triển công nghiệp gây ra, cần xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý giữa các ngành.
Xây dựng chiến lược phát triển ngành năng lượng đảm bảo đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng cao khi nền kinh tế phát triển, nhưng trên cơ sở một cơ cấu ngành công nghiệp sử dụng tiết kiệm năng lượng hơn.
Lựa chọn, bố trí các doanh nghiệp công nghiệp có tác dụng rất lớn đến bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp công nghiệp không nên bố trí gần khu dân cư, mà nên bố trí thành các cụm công nghiệp, khu dịch vụ và thương mại riêng biệt, mà trong đó tốt nhất là mỗi cụm công nghiệp gồm những doanh nghiệp công nghiệp sử dụng nguyên liệu, sản phẩm hoặc phế thải của nhau, góp phần giảm ô nhiễm môi trường.
2. Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo không phá huỷ cân bằng sinh thái và cạn kiệt tài nguyên.
Khi tác động lên môi trường tự nhiên và biến đổi nó, con người luôn đặt ra cho mình mục đích có tính chất vật chất, nhằm phát triển nền sản xuất xã hội, không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và sự phát triển của xã hội. Với mục đích đó, hoạt động sản xuất công nghiệp khai thác tài nguyên đã diễn ra ồ ạt, bất chấp qui luật tồn tại và phát triển của môi trường tự nhiên. Nền sản xuất công nghiệp của xã hội phát triển không ngừng. Tuy nhiên, bất kỳ một nền sản xuất công nghiệp nào, trước hết, đều phải tính toán đầy đủ các nguồn vốn, tức là toàn bộ chi phí cần thiết để sản xuất ra sản phẩm. Có một nguồn vốn cơ bản mà bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải tính đến, đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên. Không có một nhà doanh nghiệp sản xuất nào lại tiếp tục duy trì sản xuất khi đã tiêu phí quá nhiều nguồn vốn so với thu nhập. Trên thực tế, nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như toàn cầu trong thời gian qua đã “tiêu xài” quá phung phí một nguồn vốn quan trọng vào bậc nhất - nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trước một thực tế như vậy, cần phải xác định, nhận thức rõ và có những việc làm cụ thể hướng tới một mục tiêu không chỉ trước mắt mà còn cho cả tương lai lâu dài, đó là khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, đảm bảo không phá huỷ cân bằng sinh thái và cạn kiệt tài nguyên song song với việc phát triển công nghiệp và sản xuất công nghiệp. Cần đẩy nhanh công nghiệp hoá, phát triển kinh tế xã hội một cách cân đối với những tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Trong quá trình đẩy mạnh phát triển công nghiệp, các nguồn tài nguyên thiên nhiên phải được khai thác một cách hợp lý đồng thời tái tạo và giữ gìn chúng cho thế hệ sau, cụ thể là phải thay thế phương thức sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo bề rộng sang bề sâu, cố gắng sử dụng hết tối đa tính năng vốn có của nó để nền sản xuất xã hội chỉ thải ra những chất mà môi trường tự nhiên có thể tiếp thu và xử lý.
3. Giảm chất thải độc hại ra môi trường và nâng cao năng lực trình độ xử lý chất thải trong sản xuất công nghiệp
Xử lý chấ