Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế Quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các Quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng.
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt qua giới hạn của nó nếu như 2 bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận nào cụ thể về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng. các bên thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người bán hay của nước người mua hay có thể là đồng tiền của một nước thứ 3. Các đồng tiền được sử dụng trong TTQT chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như USD, GBP. Những năm gần đây do sự mất giá của đồng USD so với một số đồng tiền khác nên vị trí của nó trên thị trường có phần giảm sút. Do đó một số đồng tiền của các quốc gia khác như DEM, FRF, JPY ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong TTQT. Mặc dù vậy đồng USD, GBP vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nó trong TTQT, trong mua bán ngoại tệ bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện các giao dịch.
83 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2884 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề chung về thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
Những vấn đề chung về Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
I/ kháI niệm và vai trò của Hoạt động thanh toán quốc tế
1. Khái niệm
Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế Quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các Quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng.
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt qua giới hạn của nó nếu như 2 bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận nào cụ thể về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng... các bên thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người bán hay của nước người mua hay có thể là đồng tiền của một nước thứ 3. Các đồng tiền được sử dụng trong TTQT chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như USD, GBP... Những năm gần đây do sự mất giá của đồng USD so với một số đồng tiền khác nên vị trí của nó trên thị trường có phần giảm sút. Do đó một số đồng tiền của các quốc gia khác như DEM, FRF, JPY ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong TTQT. Mặc dù vậy đồng USD, GBP vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nó trong TTQT, trong mua bán ngoại tệ bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện các giao dịch.
Hiện nay phần lớn việc chi trả trong TTQT được thực hiện thông qua điện tín, bưu điện, mạng SWIFT hoặc qua các uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các Ngân hàng. Do vậy tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong TTQT chiếm một phần không đáng kể.
TTQT có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện TTQT. Các điều kiện đó là:
+ Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa điểm đó có thể ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu.
+ Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động.
+ Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn phi lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán biến động. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền muốn thu tiền nhanh còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào những yếu tố như tình hình thị trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ giữa các bên liên quan.
+ Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng trong từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua bán Quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả tiền như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng...
TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Trong các điều kiện trên, phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong quan hệ mua bán, người ta có thể chọn nhiều phương thức khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.
Người ta phân loại thanh toán quốc tế như sau:
*) Xét về mặt kinh tế
+ Thanh toán mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá, dịch vụ thương mại kết hợp xuất nhập khẩu dựa trên giá cả Quốc tế. Trong thanh toán mậu dịch, các bên liên quan sẽ bị ràng buộc với nhau theo theo các hợp đồng đã ký kết hoặc cam kết thương mại. Nếu 2 bên không ký hợp đồng chỉ có đơn đặt hàng thì sẽ căn cứ vào các đại diện giao dịch.
+ Thanh toán phi mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hoá, không mang tính chất thương mại. Đó là chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước sở tại, các chi phí vận chuyển và đi lại của các đoàn khách, chính phủ, các tổ chức, cá nhân.
*) Xét về mặt hình thức
+ Phương thức thanh toán chuyển tiền
+ Phương thức thanh toán nhờ thu
+ Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
2. Vai trò của TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại & hoạt động kinh doanh của ngân hàng
2.1. TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại
+ TTQT là khâu quan trọng trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động TTQT thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại.
+ TTQT là cầu nối giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại giữa các nước thì điều kiện quan trọng không thể thiếu được là phải thiết lập quan hệ TTQT.
+ TTQT hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của các bạn hàng cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh toán của người mua, đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động thì khả năng thanh toán của con nợ bấp bênh, và việc thực hiện hợp đồng TTQT ngày càng nhiều thì việc tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển hơn.
2.2. TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Đối với hoạt động Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho những mặt hoạt động khác của ngân hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm được khách hàng có nhu cầu TTQT về giao dịch, trên cơ sở đó mà ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình.
+ Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng đẩy mạnh được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT qua Ngân hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó nâng cao uy tín và tạo niềm tin cho khách hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế trên cơ sở đó mà có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng thế giới.
ii/ Nội dung của hoạt động TTQT
1. Đồng tiền sử dụng trong TTQT
Trong TTQT, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một nước nào đó, vì vậy trong các hiệp định và hợp đồng đều có qui định việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán đồng thời cũng qui định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động.
Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương, trong hiệp định thương mại và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
Sự so sánh lực lượng của hai bên mua và bán;
Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế;
Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới;
Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới.
Khi tiến hành thanh toán, bên nào cũng muốn dùng đồng tiền của nước mình vì có những điểm lợi sau đây:
- Có thể nâng cao địa vị đồng tiền nước mình trên thị trường thế giới;
Không phải dùng đến ngoại tệ để trả nợ nước ngoài;
Có thể tránh được rủi ro do tỷ giá tiền tệ nước ngoài biến động gây ra;
Có thể tạo điều kiện tăng thêm xuất khẩu hàng của nước mình.
Địa vị của yên Nhật Bản, Mác Đức, trong những năm gần đây được nâng cao nhờ cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai của họ thường dư thừa, nhưng các đồng tiền này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế như bảng Anh và đô la Mỹ, vì tỷ trọng xuất nhập khẩu trong mậu dịch quốc tế của các nước này chưa lớn lắm so với Anh , Mỹ và khối lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế của thị trường ngoại hối ở các nước này không nhiều bằng thị trường London và New York.
Đồng phrăng Thuỵ Sĩ từ lâu nay được coi là đồng tiền tự do “cứng” trên thế giới, nhưng vì ngoại thương của nước này chiếm tỷ trọng nhỏ trong mậu dịch quốc tế, thị trường vốn của nước này bé nhỏ, nên phrăng Thuỵ Sĩ không được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế.
Trong thanh toán ngoại thương, có những mặt hàng phải thanh toán bằng một loại tiền tệ nhất định thường là những hàng nguyên liệu quan trọng đã bị một số nước khống chế từ lâu về sản xuất và tiêu thụ, các nước này đã biến việc dùng loại tiền tệ đó để thanh toán thành một “tập quán quốc tế”. Ví dụ mua cao su, thiếc và một số kim loại mầu khác thường thanh toán bằng bảng Anh, dầu hoả bằng đô la Mỹ v.v..
Phân loại
Người ta phân loại tiền tệ thành 04 nhóm chính:
+ Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau:
Tiền tệ thế giới (World currency): Hiện nay chưa có một vật nào khác thay thế vàng thực hiện chức năng này.
Tiền tệ quốc tế (International currency): là các đồng tiền hiệp định thuộc các khối kinh tế và tàI chính quốc tế như SDR, ECU...
Tiền tệ quốc gia (National money): là đồng tiền riêng của từng nước. Sức mua của đồng tiền này biến đổi thường xuyên & liên tục phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế của quốc gia đó.
+ Căn cứ vào tính chất chuyển đổi của tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau:
Tiền tệ tự do chuyển đổi (Free convertible currency): là những đồngtiền quốc gia mà pháp luật nước đó cho phép nó được chuyển đổi tự do ra các đồng tiền của nước khác. Có 02 loại tiền tệ tự do chuyển đổi: tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do chuyển đổi từng phần.
Tiền tệ chuyển nhượng (Transferable currency): là tiền tệ được quyền chuyển nhượng từ người này qua người khác qua hệ thống tàI khoản mở tạI ngân hàng.
Tiền tệ clearing (Clearing currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản và không được chuyển dịch sang một tàI khoản khác.
+ Căn cứ vào hình thức tồn tại của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau:
Tiền mặt (Cash): là tiền giấy của từng quốc gia riêng biệt. Trong TTQT người ta rất ít khi sử dụng loại tiền này.
Tiền tín dụng (Credit currency): là tiền tàI khoản, tiền ghi sổ. Hình thức tồn tạI là các phương tiện TTQT như hối phiếu, séc, T/T, M/T..
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau:
Tiền tệ tính toán (Account currency): là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng.
Tiền tệ thanh toán (Payment currency): là tiền tệ được dùng trong thanh toán nợ nần, thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
2. Các phương tiện thanh toán quốc tế
2.1. Séc (Cheque)
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trên tờ séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy, hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản.
Séc là một phương tiện TTQT được sử dụng trong thanh toán nội địa và quốc tế về cả hàng hoá, dịch vụ và phi mậu dịch.
Đặc điểm của séc:
+ Séc chỉ được phát hành 1 bản
+ Séc có giá trị thanh toán như tiền
+ Séc có tính chất thời hạn, tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hay thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết
+ Người ký phát séc là chủ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
+ Người hưởng lợi là người có tên trên tờ séc
Các loại séc
*) Căn cứ vào tác dụng lưu chuyển
+ Séc đích danh: là loại séc mà trên đó ghi tên người hưởng lợi, loại séc này không thể chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu.
+ Séc vô danh: là loại séc mà trên đó không ghi tên người hưởng séc, người hưởng lợi là bất kì người nào cầm tờ séc.
+ Séc theo lệnh: là loại séc ghi rõ trả theo lệnh của người thụ hưởng, séc được chuyển nhượng theo thủ tục ký hậu. Trong TTQT loại séc này được sử dụng rộng rãi.
*) Căn cứ vào đặc điểm sử dụng
+ Séc tiền mặt: là loại séc được ngân hàng thanh toán trả bằng tiền mặt.
+ Séc chuyển khoản: là loại séc mà khi ngân hàng nhận được sẽ trích tiền từ tài khoản của người ký phát sang tài khoản của người khác mà không được rút bằng tiền mặt.
+ Séc gạch chéo: là séc mà trên mặt phải của nó có 2 gạch chéo song song kể từ góc này sang góc kia. Loại séc này chỉ được thanh toán chuyển khoản mà không được rút bằng tiền mặt.
+ Séc xác nhận (séc bảo chi): là loại séc mà có ký xác nhận trả bằng tiền của ngân hàng nên khả năng chi trả của tờ séc được đảm bảo chắc chắn.
+ Séc du lịch: được sử dụng đối với khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát séc, trên tờ séc phải có chữ ký của người hưởng lợi và khi lĩnh tiền phải ký tại chỗ để ngân hàng kiểm tra. Loại séc này do ngân hàng phát hành và được trả tiền ở các chi nhánh hay ở ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành séc, nơi khách du lịch đến.
2.2. Hối phiếu (Bill of Exchange)
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu ngân hàng này khi nhận được nó phải trả vào một ngày xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho người nào đó.
Hối phiếu là một phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong TTQT, nhất là trong lĩnh vực thương mại.
Đặc điểm của hối phiếu:
+ Tính trừu tượng: trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền, không nói đến nguyên nhân phát sinh công nợ. Như vậy nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng.
+ Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: người trả tiền ghi trên hối phiếu bắt buộc phải trả đủ số tiền của hối phiếu cho người thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn. Luật pháp không chấp nhận bất cứ một lý do nào gây nên sự chậm trễ hoặc từ chối trả tiền của hối phiếu.
+ Tính lưu thông của hối phiếu: trong khi hối phiếu còn thời hạn hiệu lực thì nó có thể chuyển nhượng từ người thụ hưởng này sang người thụ hưởng khác thông qua thủ tục ký hậu ở mặt sau hối phiếu (Endorsement).
Các loại hối phiếu
*) Căn cứ thời hạn trả tiền
+ Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhận được nó do người cầm hối phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
+ Hối phiếu có kì hạn: người trả tiền phải trả số tiền ghi trên tờ hối phiếu sau một thời gian nhất định kể từ ngày người đó ký chấp nhận trả tiền trên hối phiếu hoặc kể từ ngày phát hành nó.
*) Căn cứ vào chứng từ đi kèm
+ Hối phiếu kèm chứng từ: loại hối phiếu này được chuyển đến cho người nhập khẩu có kèm theo bộ chứng từ hàng hoá. Loại này gồm: Hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay và Hối phiếu kèm chứng từ có chấp nhận.
+ Hối phiếu trơn: là hối phiếu được gửi đến người trả tiền mà không kèm chứng từ hàng hoá. Trong TTQT, loại này thường dùng để thu tiền phạt, tiền bồi thường, cước phí bảo hiểm, phí vận tải, lệ phí, thủ tục phí...
*) Căn cứ vào chủ thể lập hối phiếu
+ Hối phiếu thương mại: loại này do người xuất khẩu lập để làm chứng từ đòi tiền người nhập khẩu trong các nghiệp vụ thanh toán về hàng xuất khẩu hay cung ứng dịch vụ. Hối phiếu thường đi kèm chứng từ hàng hoá trong các hình thức thanh toán bằng L/C hay uỷ thác thu.
+ Hối phiếu ngân hàng: loại này do ngân hàng phát hành để đòi tiền một người nào đó hoặc chỉ định một người nhất định trả số tiền ghi trên hối phiếu.
*) Căn cứ vào sự chuyển nhượng
+ Hối phiếu đích danh: là hối phiếu ghi rõ tên người hưởng, không kèm theo điều khoản trả theo lệnh, không chuyển nhượng được.
+ Hối phiếu vô danh: là hối phiếu không ghi tên người hưởng lợi và khi chuyển nhượng không phải ký hậu.
+ Hối phiếu theo lệnh: trong hối phiếu này phải ghi rõ trả theo lệnh của người hưởng lợi và khi chuyển nhượng phải thực hiện bằng ký hậu.
2.3. Lệnh phiếu - Kì phiếu (Promissory Note)
Lệnh phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi theo lệnh của người này trả cho người khác quy định trong lệnh phiếu đó.
Đặc điểm cơ bản của lệnh phiếu hoàn toàn trái ngược với đặc điểm của hối phiếu. Vì đặc điểm thụ động này mà trong TTQT ít dùng lệnh phiếu hơn các phương tiện thanh toán khác. Ngoài ra lệnh phiếu còn có những đặc điểm riêng sau:
+ Kỳ hạn của lệnh phiếu được ghi rõ trên nó.
+ Lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi.
+ Lệnh phiếu nhiều khi cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán.
+ Lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra chuyển cho người hưởng lợi.
2.4. Các phương tiện khác
Ngoài các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng như hối phiếu, kỳ phiếu, séc nói trên trong giao dịch thương mại quốc tế người ta còn sử dụng một số các phương tiện thanh toán quốc tế khác như: Thư chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Thẻ tín dụng, Thư tín dụng ngân hàng..
Thẻ tín dụng (Credit Card)
Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán hiện đại do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ đã cung ứng. Thẻ tín dụng cho phép chủ thể sử dụng để thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cho phép căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp của chủ thẻ. Thẻ tín dụng là một hình thức chi tiêu trước trả tiền sau với một thời hạn ưu đãi không thu lãi (khoảng từ 10 đến 45 ngày). Chủ thẻ có thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng (bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu của chủ thẻ). Thẻ tín dụng theo tên của nó đã là một hình thức tín dụng nhưng khi thanh toán nó không phải dùng tiền mặt. Tuy nhiên việc cấp phát tín dụng của ngân hàng có điểm đặc biệt ở chỗ không phải khách hàng sử dụng thẻ này mua hàng ở đâu cũng được mà chủ thẻ chỉ được sử dụng thẻ ở những nơi trực thuộc ngân hàng quản lý (Cơ sở chấp nhận thẻ, Ngân hàng đại lý). Nói tóm lại, ngày nay thẻ tín dụng là phương tiện chủ yếu phục vụ thanh toán cá nhân thay tiền mặt thông dụng trên thế giới, có thể dùng để thanh toán thay thế cho việc luân chuyển một phần tiền mặt từ nơi này sang nơi khác ở trong nước và ngoài nước.
Điện chuyển tiền (Telegraphic Transfer)
Điện chuyển tiền là tập tin chuyển tải những thông tin nhất định liên quan đến giao dịch thanh toán quốc tế giữa các ngân hàng được lập theo tiêu chuẩn của SWIFT và được truyền nhận trên mạng IBS và/ hoặc trên mạng SWIFT. Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh những chi phí cao. Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT thì hầu hết chuyển tiền đều thực hiện qua mạng.
Thư tín dụng của ngân hàng ( Bank Letter of Credit)
Thư tín dụng của ngân hàng là một cam kết thanh toán có điều kiện của Ngân hàng. Chi tiết hơn, nó là một cam kết bằng văn bản của ngân hàng giao cho người bán theo yêu cầu, và trên cơ sở các chỉ dẫn của người mua thanh toán hoặc vào một ngày tương lai xác định một tổng số tiền đã định, trong một giới hạn thời gian và trên cơ sở các chứng từ đã quy định.
Thư tín dụng ngân hàng là một phương thức tiện và an toàn nhất cho thanh toán xuất khẩu trong các hình thức thanh toán hiện thời (nhờ thu, thanh toán trơn, thanh toán ứng trước, thanh toán bằng séc..)
3. Các phương thức thanh toán quốc tế
3.1. Phương thức thanh toán chuyển t