Trong những năm gần đây, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới thì có nhiều vấn đề nảy sinh trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Để có sự phát triển không ngừng như hiện nay thì nền kinh tế - xã hội ở nước ta phải được xây dựng trên một nền tảng cơ sở vật chất nhất định. Trong đó, con người đóng vai trò trung tâm của sự phát triển xã hội. Để có thể tồn tại thì con người cần thiết lập những yếu tố có lợi nhằm phục vụ cuộc sống của mình. Hay nói cách khác là ngay từ khi xuất hiện con người đã học được cách chiếm hữu nhằm thỏa mãn những yêu cầu nhất định. Chính điều đó đã làm xuất hiện Sở hữu.
Sở hữu được xem là: “ vật liệu xây dựng” của con người, là xuất phát điểm cho mọi quá trình kinh tế. Vấn đề sở hữu là vấn đề quan trọng có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân trong quá trình phát triển của xã hội. Bởi sở hữu được xem là: Là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền; Là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Sau hơn hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta, với những thành công và hạn chế đã có trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đã có những vấn đề lý luận tưởng chừng như đã được giải quyết nhưng đến nay lại nổi lên trước yêu cầu của thực tiễn. Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học trong đó có lý luận về vấn đề: " sở hữu nói chung và sở hữư tư nhân nói riêng" là điều tất yếu khách quan. Điều này trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước.
Điều 15, Hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “.Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức, sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng”. Chế độ sở hữu tư nhân đã trở thành vấn đề cần thiết và cấp bách thể hiện rõ chức năng quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Đồng thời, đây cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tính ưu việt và tầm quan trọng của chế độ sở hữu tư nhân giữ vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Do vậy, việc tạo ra một nền tảng pháp lý cơ bản điều chỉnh về vấn đề sở hữu tư nhân một cách có hiệu quả nhất là điều cần thiết. Quá trình ban hành các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực Dân sự nói riêng đã điều chỉnh một cách trực tiếp các quan hệ xã hội về sở hữu tư nhân. Điều này đã giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Tuy vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật về sở hữu nói chung và sở hữu tư nhân nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Thực tế ở nước ta, bên cạnh những thành quả đã đạt được trong vấn đề quy định về vấn đề sở hữu tư nhân còn bộc lộ những hạn chế trong quá trình thực hiện. Vì vậy, nghiên cứu đề tài : “CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM " góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về vấn đề sở hữu tư nhân trong lĩnh vực Dân sự và vướng mắc trong quá trình thực hiện ở nước ta . Qua đó nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự về sở hữu tư nhân nói riêng và hệ thống pháp luật về sở hữu nói chung. Ngoài ra còn nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện tại và trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn hình thức sở hữu tư nhân làm đối tượng nghiên cứu chúng ta có thể đi sâu phân tích lý luận chung và các quy định cơ bản về vấn đề này. Vấn đề sở hữu tư nhân đã và đang được nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm. Đồng thời, được xem xét dưới nhiều góc độ: Chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật.Nhất là cụ thể trong các quy định của pháp luật dân sự về chế độ sở hữu tư nhân. Điều đó càng khẳng định tầm quan trọng của sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật Dân sự về hình thức sở hữu tư nhân ở Việt Nam. Rút ra những ưu, hạn chế của pháp luật dân sự về sở hữu tư nhân và những vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển và hoàn thiện pháp luật về sở hữu tư nhân, đồng thời tìm ra phương hướng khắc phục những khó khăn trong quá trình tổ chức quản lý, thực thi pháp luật về sở hữu tư nhân.
35 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2048 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân Thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
----- & -----
VÕ THỊ HOÀNG MAI
NIÊN LUẬN
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
HUẾ, 09/2010.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới thì có nhiều vấn đề nảy sinh trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Để có sự phát triển không ngừng như hiện nay thì nền kinh tế - xã hội ở nước ta phải được xây dựng trên một nền tảng cơ sở vật chất nhất định. Trong đó, con người đóng vai trò trung tâm của sự phát triển xã hội. Để có thể tồn tại thì con người cần thiết lập những yếu tố có lợi nhằm phục vụ cuộc sống của mình. Hay nói cách khác là ngay từ khi xuất hiện con người đã học được cách chiếm hữu nhằm thỏa mãn những yêu cầu nhất định. Chính điều đó đã làm xuất hiện Sở hữu.
Sở hữu được xem là: “ vật liệu xây dựng” của con người, là xuất phát điểm cho mọi quá trình kinh tế. Vấn đề sở hữu là vấn đề quan trọng có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân trong quá trình phát triển của xã hội. Bởi sở hữu được xem là: Là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền; Là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Sau hơn hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta, với những thành công và hạn chế đã có trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đã có những vấn đề lý luận tưởng chừng như đã được giải quyết nhưng đến nay lại nổi lên trước yêu cầu của thực tiễn. Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học trong đó có lý luận về vấn đề: " sở hữu nói chung và sở hữư tư nhân nói riêng" là điều tất yếu khách quan. Điều này trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước.
Điều 15, Hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “...Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức, sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng”. Chế độ sở hữu tư nhân đã trở thành vấn đề cần thiết và cấp bách thể hiện rõ chức năng quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Đồng thời, đây cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tính ưu việt và tầm quan trọng của chế độ sở hữu tư nhân giữ vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Do vậy, việc tạo ra một nền tảng pháp lý cơ bản điều chỉnh về vấn đề sở hữu tư nhân một cách có hiệu quả nhất là điều cần thiết. Quá trình ban hành các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực Dân sự nói riêng đã điều chỉnh một cách trực tiếp các quan hệ xã hội về sở hữu tư nhân. Điều này đã giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Tuy vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật về sở hữu nói chung và sở hữu tư nhân nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Thực tế ở nước ta, bên cạnh những thành quả đã đạt được trong vấn đề quy định về vấn đề sở hữu tư nhân còn bộc lộ những hạn chế trong quá trình thực hiện. Vì vậy, nghiên cứu đề tài : “CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM " góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về vấn đề sở hữu tư nhân trong lĩnh vực Dân sự và vướng mắc trong quá trình thực hiện ở nước ta . Qua đó nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự về sở hữu tư nhân nói riêng và hệ thống pháp luật về sở hữu nói chung. Ngoài ra còn nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện tại và trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn hình thức sở hữu tư nhân làm đối tượng nghiên cứu chúng ta có thể đi sâu phân tích lý luận chung và các quy định cơ bản về vấn đề này. Vấn đề sở hữu tư nhân đã và đang được nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm. Đồng thời, được xem xét dưới nhiều góc độ: Chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật...Nhất là cụ thể trong các quy định của pháp luật dân sự về chế độ sở hữu tư nhân. Điều đó càng khẳng định tầm quan trọng của sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật Dân sự về hình thức sở hữu tư nhân ở Việt Nam. Rút ra những ưu, hạn chế của pháp luật dân sự về sở hữu tư nhân và những vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển và hoàn thiện pháp luật về sở hữu tư nhân, đồng thời tìm ra phương hướng khắc phục những khó khăn trong quá trình tổ chức quản lý, thực thi pháp luật về sở hữu tư nhân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Những vấn đề lý luận chung nhất về hình thức sở hữu tư nhân như khái niệm sở hữu tư nhân; nội dung của quyền sở hữu tư nhân; các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu tư nhân; sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự hiện hành về sở hữu tư nhân.
- Thực tế áp dụng pháp luật về sở hữu tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn trở lại đây. Đánh giá thực trạng, tìm hiểu những hạn chế và khó khăn trong quá trình áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật dân sự về hình thức sở hữu tư nhân nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các văn bản pháp luật như: Bộ Luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thực hiện có liên quan. Nội dung niên luận chỉ giới hạn trong những vấn đề lý luận chung về sở hữu tư nhân và các quy định của pháp luật Dân Sự điều chỉnh vấn đề này. Giới hạn khảo sát của niên luận là quá trình áp dụng pháp luật Dân sự về sở hữu tư nhân ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng cho niên luận là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm:
- Kết hợp giữa phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp làm rõ nội dung cần nghiên cứu.
- So sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các quan điểm khác nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các giải pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của niên luận có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Tạo một cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về vấn đế sở hữu nói chung và sở hữu tư nhân nói riêng trong hoạt động quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của xã hội. Thông qua niên luận có thể cung cấp một cái nhìn rõ nét về các quy định của pháp luật trong chế độ sở hữu tư nhân.. Đồng thời, với sự tiếp cận những vấn đề của thực tiễn ở Việt Nam sẽ giúp chúng ta nhìn nhận về thực tiễn của tình hình áp dụng pháp luật về hình thức sở hữu tư nhân và vai trò của thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đặc biệt, đối với sinh viên, kết quả của niên luận là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo khi học tập, nghiên cứu, nhất là khi hoàn thành các báo cáo khoa học cấp khoa, cấp trường…
Ngoài ra, niên luận còn có ý nghĩa thiết thực đối với một số đối tượng quan tâm đến hình thức sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với sự phát triển tất yếu của các quan hệ xã hội phát sinh trong quan hệ về sở hữu nhất là đối với vấn đề sở hữu tư nhân.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài có 2 chương:
- Chương 1: Khái quát về sở hữu tư nhân và sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự về hình thức sở hữu tư nhân.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật Dân sự về sở hữu tư nhân ở Việt Nam và một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Dân sự về sở hữu tư nhân. ( Giai đoạn 1996 đến nay).
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU TƯ NHÂN
1.1. Khái quát về hình thức sở hữu tư nhân
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật Dân sự về chế độ sở tư nhân
1.1.1.1. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân trong lịch sử loài người
Trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào thì quan hệ kinh tế( quan hệ sản xuất) vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo, quyết định tính chất, nội dung, phương hướng phát triển của các quan hệ xã hội. Bản thân các quan hệ kinh tế cũng rất đa dạng, như: quan hệ sở hữu, quan hệ trao đổi hàng hóa, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Trong đó, quan hệ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhất vì bản thân quan hệ này đã quyết định tính chất và nội dung của các quan hệ kinh tế khác. Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong xã hội loài người đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của chế độ sở hữu nói chung trong đó có chế độ sở hữu tư nhân.
Chế độ Cộng sản nguyên thủy: Vào giai đoạn cuối do sự phát triển của lực lượng sản xuất thông qua ba cuộc phân công lao động xã hội [ơlần 1: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; lần 2: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; lần 3: thương nghiệp xuất hiện( với sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân và nghề thương mại)). Điều đó đã làm xuất hiện chế độ tư hữu, làm phân hóa xã hội và làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng. Khi xã hội đã phân thành các giai cấp đối lập nhau, có giai cấp tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị thì thị tộc đã không còn phù hợp. Xã hội đòi hỏi có một tổ chức mới đủ sức giữ xã hội trong vòng trật tự. Đồng thời mang lại lợi ích cho người có của và giữ vững địa vị thống trị. Tổ chức đó chính là Nhà nước.
Chế độ Chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của Nhà nước chủ nô ra đời duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của giai cấp chủ nô đối với tất cả tư liệu sản xuất của xã hội ngay cả bản thân người nô lệ. Nô lệ chỉ là công cụ biết nói chứ không phải là người. Ở đây, trình độ tư hữu còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng được xem là tuyệt đối.
Chế độ Phong kiến : Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện ở chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất của giai cấp thống trị. Nhà nước và pháp luật phong kiến bảo vệ và duy trì chế độ sở hữu của địa chủ, lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất. Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền...hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau).
Chế độ Tư bản chủ nghĩa: Là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư ( do công nhân làm thuê sáng tạo bị giai cấp tư sản và bị chiếm hữu). Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản đó là: Nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân, tự do sản xuất, kinh doanh được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp. Và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người. Với những hình thức bóc lột tinh vi bằng những phương pháp, thủ đoạn bóc lột ở trình độ cao thì các tư liệu sản xuất tập trung chủ yếu trong tay giai cấp tư sản, tập đoàn tư bản và các nhà tư sản.
Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì có hai phương thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam do xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu cho nên việc có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu là điều cần thiết. Trong đó, sở hữu tư nhân cùng với các hình thức sở hữu khác tận dụng một cách triệt để sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế. Tất cả nhằm tạo ra một tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho Chủ nghĩa xã hội.
Tuy vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở nước ta hiện nay với mục tiêu là phát triển một lực lượng sản xuất tiên tiến thì sở hữu nhà nước - kinh tế nhà nước được xem là nền tảng của nền kinh tế. Đồng thời, sở hữu nhà nước - kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân - kinh tế tư nhân đi theo đúng quỹ đạo dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.Trong tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản thì C.Mác và F. Ănghen đã nhấn mạnh: Chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ của ai quyền chiếm hữu của các của cải mà chỉ xóa bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác.
1.1.1.2. Quá trình phát triển của pháp luật Dân sự về sở hữu và hình thức sở hữu tư nhân ở Việt Nam
a. Giai đoạn 1945 - 1959
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội đi theo con đường của Chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp 1946 ( thông qua tháng 11/1946) đã tạo một nền tảng pháp lý cơ bản và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân đã trở thành quyền hiến định. Điều này được ghi nhận tại điều 12, Hiến pháp 1946 như sau: " Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". Trong giai đoạn này, nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam là xóa bỏ chế độ sở hữu đối với tư liệu sản xuất của thực dân Pháp, địa chủ phong kiến... Pháp luật về sở hữu thời kỳ 1946 - 1959 đã tạo những tiền đề quan trọng cho việc xác lập mối quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền nhân dân. Từ đó, xây dựng những cơ sở vật chất làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Chính quyền do giai cấp vô sản làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản làm công cụ cải tạo xã hội, thiết lập các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Và coi công hữu là mục tiêu.
b. Giai đoạn 1959 - 1980.
Đây là giai đoạn Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp tục công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới. Chiến thắng 30/4/1975, đất nước thống nhất, với những thành quả mà công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc đã làm tiền đề cho quá trình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiến pháp 1959 ra đời đã ban hành những quy định về hình thức sở hữu trong nền kinh tế - xã hội nước ta.
Với nhiệm vụ của thời kỳ này là: Xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc. Từ đó, tạo nền tảng cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta sau khi giải phóng đất nước. Điều 12, Hiến pháp 1959 khẳng định: “ Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước đảm bảo ưu tiên phát triển...”. Bên cạnh hình thức sở hữu nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác như: Sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, của những người tiểu thương, thợ thủ công... Vì vậy, điều 11, Hiến pháp 1959 đã xác nhận và bảo hộ những hình thức sở hữu chủ yếu đó là quy định rằng : " Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẽ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc". Pháp luật về sở hữu trong giai đoạn này chưa xác nhận việc công hữu hóa hoàn toàn đất đai ( theo Hiến pháp 1959) nên quyền tư hữu của các hộ nông dân cá thể vẫn được Nhà nước bảo hộ cùng với các quyền tài sản khác. Đây là kết quả của quá trình đấu tranh của nhân dân ta qua những chặng đường dài của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta đã thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ III, IV đó là: Vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải tạo có xây dựng...Các văn bản pháp luật về sở hữu thời kỳ này đã tạo ra một tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ tiếp theo ở nước ta.
c. Giai đoạn 1980 – 1992.
Hiến pháp 1980 ra đời thay thế cho bản hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu nhà nước mà các bản Hiến pháp 1946, 1959 chưa quy định. Theo Hiến pháp 1980, tại các điều 18, 19, 23, 24 và 27 đã quy định một cách chi tiết về các hình thức sở hữu. Điều 18, Hiến pháp 1980 đã ghi nhận như sau: “ Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu của nhân dân lao động.
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên”.
Trước khi tiến hành đổi mới Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện một cách cơ bản về chế độ sở hữu Xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu cơ bản đó là: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đánh giá một cách tổng quan thì với hai hình thức sở hữu này đã đóng góp và phát huy vai trò to lớn trong quá trình đấu tranh giành chính quyền cũng như trong tiến trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng thực tế ở nước ta, do xuất phát điểm thấp, trình độ của lực lượng sản xuất còn chưa cao, năng suất lao động thấp. Thêm vào đó là do tư duy chủ quan, thiếu hiểu biết, tư tưởng nóng vội, duy ý chí đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu Xã hội chủ nghĩa. Trong một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động. Đồng thời coi đây là mầm mống khôi phụ chế độ bóc lột làm kìm hãm sự phát triển của đất nước trên nhiều phương diện.
d. Giai đoạn từ 1992 cho đến nay
Với đường lối đổi mới đã được đề ra thì công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhất là trong những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ trước. Hiến pháp 1992 ra đời đã kế thừa những quy định của các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời xác nhận chế độ kinh tế của nước ta gồm ba hình thức sở hữu được quy định một cách cụ thể tại điều 15, Hiến pháp 1992( sửa đổi, bổ sung năm 2001): “ Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Cùng với xu thế phát triển một nền kinh tế đa dạng, Hiến pháp 1992 đã xác nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân, nhiều thành phần kinh tế. Điều 21, Hiến pháp 1992 ( đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế, dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”. Bên cạnh đó, về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất quan trọng là đất đai, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả ( điều 18). Đồng thời, có sự thay đổi trong chính sách sử dụng đất cho phù hợp với thực tiễn trong giai đoạn mới.
Thành tựu lập pháp cao nhất trong lĩnh vực sở hữu nói chung và sở hữu tư nhân nói riêng đó là quy định về tài sản và quyền sở hữu trong Phần hai Bộ Luật Dân Sự. Với các quy định tương đối hoàn thiện và đầy đủ về sở hữu chắc chắn tạo ra những nền tảng thuận lợi cho việc ổng định và phát triển các quan hệ hàng hóa tiền tệ trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần của Hiến pháp 1992 và \được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì Bộ Luật Dân sự 1995( có hiệu lực ngày 01/7/1996) và sau này là Bộ Luật Dân sự 2005( có hiệu lực vào ngày 01/01/2006) tại điều 172 quy định một cách cụ thể như sau : “...sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp”. Hiến pháp năm 1992 thừa nhận một số hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen, được hình thành từ mối liên hệ liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế. Điều 22 Hiến pháp năm 1992 qui định: “...Doanh nghiệp thuộc