Niên luận Khảo sát và dịch chú tác phẩm luận ngữ tinh hoa của Nguyễn Phúc Ưng Trình

Từ khi Tứ thư được coi là bộ kinh điển sử dụng chính thống trong khoa cử để kén chọn hiền sĩ, việc thông làu Tứ thư là yếu tố bắt buộc với những người muốn tiến thân vào con đường làm chính trị. Nhắc tới Tứ thư không thể không nhắc tới sách Luận ngữ, bộ sách đặt nền móng cho mọi tư tưởng, triết lý sâu xa khác trong Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử. Muốn hiểu được ba bộ sách còn lại, buộc người học phải thông hiểu được Luận ngữ. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về sự tiếp thu Nho học ở Việt Nam, mà phương pháp tiếp cận chủ yếu là tìm hiểu, khảo sát các truyền bản, dịch chú các tác phẩm kinh điển của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh, mà Luận ngữ, tác phẩm đứng đầu trong Tứ thư, được chú trọng nhất. Các tác phẩm viết về Luận ngữ tại Việt Nam đã có như Luận ngữ chế nghĩa論 語 制 義, Luận ngữ chính văn tiểu đối論 語 正 文 小 對, Luận ngữ ngu án論 語 愚 按 ( Phạm Nguyễn Du ) , Luận ngữ tập nghĩa 論 語 集 義, Luận ngữ thích nghĩa ca論 語 釋 義 歌 ( Tự Đức biên soạn ) , Luận ngữ tiết yếu論 語 節 要 ( Lê Văn Ngữ ) , Luận ngữ tinh nghĩa論 語 精 義 , Luận thuyết tập論 說 集 và Luận ngữ tinh hoa論 語 菁 華 ( Ưng Trình ) . Trong Niên luận này, chúng tôi quyết định chọn Luận ngữ tinh hoa của tác gia Ưng Trình để tiến hành tìm hiểu và khảo sát. Sở dĩ chúng tôi chọn cuốn sách này là vì những lý do đặc biệt như hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, nội dung tư tưởng và dụng ý của tác giả khi phân chia các thiên mục. Ngoài ra, mục “Hải ngoại” trong Khổng Tử đại từ điển có nhắc tới cuốn sách này sau cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu, trong khi một số tác phẩm viết về Luận ngữ nổi tiếng khác như Luận ngữ ngu án hay Luận ngữ tiết yếu không được nhắc tới. Luận ngữ tinh hoa không đơn thuần chỉ là một tác phẩm được viết theo hình thức tiết yếu của sách Luận ngữ, nó chắt lọc những gì mà tác giả coi tinh túy nhất, giá trị nhất của sách Luận ngữ mà viết nên.

doc84 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Khảo sát và dịch chú tác phẩm luận ngữ tinh hoa của Nguyễn Phúc Ưng Trình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Quốc gia Hà Nội Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Văn học œ[ NIÊN LUẬN Đề tài : KHẢO SÁT VÀ DỊCH CHÚ TÁC PHẨM LUẬN NGỮ TINH HOA của Nguyễn Phúc Ưng Trình œ[ Giáo viên hướng dẫn : Ths. Đinh Thanh Hiếu Họ và tên : Đỗ Hoàng Tú Anh Mã số SV : 07030014 Lớp : Hán Nôm Khóa : K52 Hà nội, 12/2009 MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Phạm vi đề tài và phương pháp nhiên cứu 4 3. Đóng góp của đề tài 5 4. Bố cục của Niên luận 5 5. Quy cách trình bày 6 II. PHẦN NỘI DUNG A. Tác giả - Tác phẩm 1. Tác giả Ưng Trình 7 2. Tác phẩm Luận ngữ tinh hoa 2.1 Hoàn cảnh ra đời 8 2.2 Tình hình văn bản 9 2.3 Hình thức và bố cục 9 2.4 Nội dung chính 11 2.5 So sánh cách phân chia thiên mục của Luận ngữ tinh hoa với cách phân chia thiên mục các tác phẩm viết về Luận ngữ khác 15 2.6 Vị trí và vai trò của Luận ngữ tinh hoa trong di sản Hán Nôm Việt Nam 19 3. Kết luận 23 B. Dịch chú tác phẩm 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 PHỤ LỤC (NGUYÊN BẢN) PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ khi Tứ thư được coi là bộ kinh điển sử dụng chính thống trong khoa cử để kén chọn hiền sĩ, việc thông làu Tứ thư là yếu tố bắt buộc với những người muốn tiến thân vào con đường làm chính trị. Nhắc tới Tứ thư không thể không nhắc tới sách Luận ngữ, bộ sách đặt nền móng cho mọi tư tưởng, triết lý sâu xa khác trong Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử. Muốn hiểu được ba bộ sách còn lại, buộc người học phải thông hiểu được Luận ngữ. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về sự tiếp thu Nho học ở Việt Nam, mà phương pháp tiếp cận chủ yếu là tìm hiểu, khảo sát các truyền bản, dịch chú các tác phẩm kinh điển của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh, mà Luận ngữ, tác phẩm đứng đầu trong Tứ thư, được chú trọng nhất. Các tác phẩm viết về Luận ngữ tại Việt Nam đã có như Luận ngữ chế nghĩa論 語 制 義, Luận ngữ chính văn tiểu đối論 語 正 文 小 對, Luận ngữ ngu án論 語 愚 按 ( Phạm Nguyễn Du ) , Luận ngữ tập nghĩa 論 語 集 義, Luận ngữ thích nghĩa ca論 語 釋 義 歌 ( Tự Đức biên soạn ) , Luận ngữ tiết yếu論 語 節 要 ( Lê Văn Ngữ ) , Luận ngữ tinh nghĩa論 語 精 義 , Luận thuyết tập論 說 集 và Luận ngữ tinh hoa論 語 菁 華 ( Ưng Trình ) . Trong Niên luận này, chúng tôi quyết định chọn Luận ngữ tinh hoa của tác gia Ưng Trình để tiến hành tìm hiểu và khảo sát. Sở dĩ chúng tôi chọn cuốn sách này là vì những lý do đặc biệt như hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, nội dung tư tưởng và dụng ý của tác giả khi phân chia các thiên mục. Ngoài ra, mục “Hải ngoại” trong Khổng Tử đại từ điển có nhắc tới cuốn sách này sau cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu, trong khi một số tác phẩm viết về Luận ngữ nổi tiếng khác như Luận ngữ ngu án hay Luận ngữ tiết yếu không được nhắc tới. Luận ngữ tinh hoa không đơn thuần chỉ là một tác phẩm được viết theo hình thức tiết yếu của sách Luận ngữ, nó chắt lọc những gì mà tác giả coi tinh túy nhất, giá trị nhất của sách Luận ngữ mà viết nên. 2. Phạm vi đề tài và phương pháp nghiên cứu Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi cố gắng làm rõ những vần đề liên quan tới sự ra đời và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Trên cơ sở đó đưa ra cái nhìn tổng quát nhất về bối cảnh lịch sử, quan niệm và sự tiếp thu Nho giáo thời bấy giờ. Để giải quyết các vấn đề đã nêu ở trên, chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích, mô tả, tổng hợp, so sánh và không thể thiếu phần phiên âm, dịch nghĩa, chú giải cho tác phẩm. 3. Đóng góp của đề tài Khi tiến hành nghiên cứu theo phạm vi đặt ra, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu bối cảnh lịch sử và cung cấp một bản dịch chú đầy đủ của một tác phẩm tìm hiểu kinh điển tại Việt Nam trong buổi giao thời. Ngoài ra chúng tôi cũng tiến hành khảo cứu tác phẩm thông qua phần phiên âm,dịch nghĩa và chú thích tác phẩm. Đóng góp chính của Niên luận này là đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về lịch sử Việt Nam và sự thay đổi trong quan niệm Nho giáo của tầng lớp cai trị, cũng như tầng lớp trí thức Việt Nam trong buổi giao thời. 4. Bố cục Niên luận Niên luận này được chia làm hai phần lớn là phần Mở đầu và phần Nội dung, ngoài ra còn có phần Phụ lục và phần Tài liệu tham khảo. Các vấn đề chính được giải quyết ở phần Nội dung. Bố cục như sau : PHẦN NỘI DUNG A. Tác giả - Tác phẩm 1. Tác gia Ưng Trình 2. Tác phẩm Luận ngữ tinh hoa. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Tình hình văn bản Hình thức và bố cục tác phẩm Nội dung chính của tác phẩm So sánh cách phân chia thiên mục của tác phẩm với một số tác phẩm Luận ngữ khác như Luận ngữ tiết yếu, Luận ngữ ngu án... Vị trí và vai trò của Luận ngữ tinh hoa trong di sản Hán Nôm Việt Nam 3. Kết luận B. Dịch chú tác phẩm TÀI LI ỆU THAM KHẢO PHẦN PHỤ LỤC 5. Quy cách trình bày Tên tác phẩm : Viết hoa chữ cái đầu, in nghiêng. Phiên âm Hán Việt : In nghiêng. Dịch nghĩa : Viết thường. Tên người, địa danh : Viết hoa toàn bộ. PHẦN NỘI DUNG A. Tác giả - Tác phẩm 1. Tác giả Ưng Trình Ưng Trình ( chưa rõ năm sinh năm mất ) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Trình 阮福膺脭, quê tại Lạc Tịnh Viên - Bến ngự ( Huế ), nguyên là Hiệp Tá Ðại Học Sĩ, đại thần Cơ Mật viện, Tôn Nhân Phủ Ðại Thần (1936) và Thượng Thư. Vợ là Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư. Ưng Trình là con của Hường Khẳng, cháu gọi Tùng Thiện Vương là ông nội. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình hoàng tộc. Năm Quý Mùi (1823), năm thứ tư triều Minh Mạng, Vua định phép đặt tên cho cả Hoàng gia, làm thành 11 bài thơ chạm vào Kim sách và Ngân sách. Bản Kim sách chạm vào Đế hệ thi: Miên, Hường, Ưng, Bửu, Vĩnh Bảo, Quý, Định, Long, Trường Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương Nói như vậy thì Ưng Trình thuộc hàng thứ ba trong đế hệ Nguyễn tộc. Ông đã từng giữ nhiều chức vị quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn dưới thời Bảo Đại. Chính vì vậy mà ông đã được chứng kiến nhiều biến cố của đất nước. Ông không những là một chính trị gia luôn được tham gia vào những sự kiện lớn của triều đình nhà Nguyễn, mà về mặt văn hóa ông còn là một nhà viết sách, tác phẩm Luận ngữ tinh hoa do ông biên soạn và viết biền ngôn năm Duy Tân Giáp Dần (1914) khi ông đang giữ chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp ( Hiệu phó). Ngoài ra ông cùng người con trai thứ hai là Linh Mục Bửu Dưỡng đã viết cuốn sách Tùng Thiện Vương, tiểu sử và thi văn được in năm 1970. 2. Tác phẩm Luận ngữ tinh hoa * Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Giai đoạn đầu thế kỷ XX mà tác giả Ưng Trình sống là giai đoạn đầy những biến động trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới. Thời kì này xã hội Việt Nam đang chuyển biến mạnh mẽ. Chế độ phong kiến đang trên đà sụp đổ, hệ tư tưởng Nho giáo trải qua thời kỳ cực thịnh đã đến giai đoạn suy vi, nhường chỗ cho luồng tư tưởng mới Tây Âu tân tiến xâm nhập. Tầng lớp trí thức ít nhiều đã bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây, Nho giáo không còn được chú trọng như trước nữa. Trong khoa thi Hương, ngoài các môn chữ Nho còn có thêm các môn khác như cách trí, sử kí, địa dư, toán pháp dạy bằng chữ quốc ngữ và một ít chữ Pháp. Sống trong buổi giao thời, tác giả Ưng Trình đã thấy rõ được sức ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa phương Tây tới đại bộ phận tầng lớp trí thức trong xã hội. Tuy nhiên vào thời điểm này, Nho giáo vẫn chiếm một vị trí nhất định trong tư tưởng của đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy mà năm Duy Tân Giáp Dần (1914), tác giả Ưng Trình đã biên soạn và viết biền ngôn tác phẩm Luận ngữ tinh hoa. Đây là tác phẩm được viết và ra đời vào thời điểm nhạy cảm của văn hóa Việt Nam, văn hóa phương Tây và Nho giáo cùng song song tồn tại. Ở phần biền ngôn, tác giả Ưng Trình có viết lý do biên soạn tác phẩm : “ Trộm nghĩ những cách ngôn của Khổng Tử về đạo đời và lòng người đều đầy đủ trong sách Luận ngữ, mà sách Tề luận hai mươi hai thiên, Cổ luận hai mốt thiên, Lỗ luận hai mươi thiên đều do người ghi biên soạn, phân hợp thiên chương, tản mạn không có điều mục. Nay nhân lúc nhàn rỗi, ôn lại điều cũ mà phân trích thành thiên mục, dùng như vị bánh để các học trò tiện ghi nhớ”. Cách phân chia các thiên mục của tác phẩm cũng nhằm mang tới cho người đọc cách tiếp cận và thông hiểu những câu trích lục trong Luận ngữ một cách dễ dàng nhất. * Tình hình văn bản Hiện văn bản Luận ngữ tinh hoa ( hoặc Luận ngữ tanh hoa) đang được lưu trữ tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm với các kí hiệu là Vhv.775; Vhv.501; VHv.776. Ba ký hiệu nhưng lại là một bản giống nhau. được tác giả Ưng Trình biên soạn và viết biền ngôn năm Duy Tân Giáp Dần (1914). Bài tựa của sách do Tế tửu (Hiệu trưởng) Mã Phong tử Đặng Văn Thụy viết, bài bạt do Tạ Thúc Đĩnh và Nguyễn Văn Trình viết (1914) . Sách là bản khắc in gồm 96 trang, mỗi trang chia thành bốn cột dọc, viết từ phải sang trái. Mỗi cột có trung bình từ 11 đến 13 chữ. Các chữ có khoảng cách khá rộng. Bài tựa và bài bạt vết bằng lối chữ hành thảo tương đối khó nhìn, phần biền ngôn viết bằng chữ lệ, còn phần chính văn viết bằng lối chữ khải chân phương rất đẹp và dễ nhìn. Bài tựa và bài bạt được viết theo lối viết đài, chia thành sáu cột dọc, viết từ phải sang trái, mỗi cột trung bình từ 13 đến 15 chữ, khoảng cách giũa các chữ khá nhỏ nhưng vẫn có thể phân biệt được. Toàn sách được chia thành tám thiên, mỗi thiên bao gồm nhiều câu được trích lục từ các thiên trong Luận ngữ, dưới mỗi câu có ghi xuất xứ. Trong Niên luận này chúng tôi lấy sách có ký hiệu là VHv.775 để tiến hành nghiên cứu và khảo sát. * Hình thức và bố cục tác phẩm Hình thức : Luận ngữ tinh hoa là một hình thức tiết yếu của sách Luận ngữ. Các trích dẫn đều là thánh ngôn của Khổng Tử. Tuy nhiên cách tác giả lựa chọn để trích dẫn không giống nhau. Có thể ông không trích dẫn toàn chương mà chỉ lấy một hai tiết thiết yếu, hay có khi chỉ vài ba chữ (VD : 曰: “主忠信”).Cũng có trường hợp một chương trong nguyên văn được ông tách ra và đưa vào các thiên mục khác nhau ( VD : Trong nguyên văn là “學而時習之 ,不亦說乎? 有朋自遠方來 , 不亦樂乎 ? 人不知而不慍, 不亦君子乎 ?” thì tác giả đã tách câu đầu và câu cuối, xếp vào hai thiên “ Học vấn” và “ Trì kỷ”). Tác phẩm có tính thực dụng khá cao, có thể nhận thấy trình tự sắp xếp các thiên ứng với hai mục lớn là Tu thân và Xử thế, ngoài ra những vấn đề về thiên mệnh, quỷ thần, tính lý huyền viễn siêu hình thì gần như không được đưa vào tác phẩm. Bố cục : Tác phẩm Luận ngữ tinh hoa bao gồm 308 tiết được chia thành 8 thiên mục lớn theo thứ tự là Học vấn, Tiến tu, Sự thân, Trì kỷ, Tiếp vật, Quan nhân, Xử thế và Vi chính. Sự phân chia độ dài ngắn và số lượng tiết trong mỗi thiên mục là không giống nhau. Như thiên Trì kỷ có số lượng tiết nhiều nhất ( 34 tiết ), còn thiên Sự thân có số tiết ít nhất ( 8 tiết ). Tên tác phẩm là Luận ngữ tinh hoa nghĩa là trích lục những câu được coi là tinh hoa của sách Luận ngữ để dạy trẻ nhỏ học chữ Hán. Tuy nhiên với bối cảnh lịch sử như đã nói ở trên thì Luận ngữ tinh hoa ra đời trong khi Nho học đang trên đà suy yếu. Điều này khiến cho Luận ngữ tinh hoa có phần khác với những tác phẩm viết về Luận ngữ trước đó, thể hiện rõ nhất là việc phân chia các thiên mục. Thứ nhất, việc phân chia các thiên mục trong tác phẩm không giống với cách phân chia các thiên mục cổ điển trong sách Luận ngữ và các tác phẩm viết về Luận ngữ trước đó. Thứ hai, cách phân chia các thiên mục của tác giả nhằm hướng cho người đọc một cách tiếp cận dễ dàng và dễ hiểu. Điều này là cần thiết khi Nho giáo đang nhường chỗ cho văn hoá phương Tây. Việc phân chia các tiết vào trong các thiên mục lớn lần lượt là Học vấn, Tiến tu, Sự thân, Trì kỷ, Tiếp vật, Quan nhân, Xử thế và Vi chính nhằm thể hiện hai mục tiêu lớn là Tu thân và Xử thế. Ta có thể thấy Học vấn, Tiến tu, Sự thân, Trì kỷ thuộc về Tu thân. Tiếp vật, Quan nhân, Xử thế và Vi chính thuộc về Xử thế. Sự sắp xếp các thiên mục như vậy nhằm đưa người học từng bước tiến tới những chuẩn mực, tu thân trước rồi mới có thể đem ra thi hành. * Nội dung chính của tác phẩm Thiên “Học vấn” gồm 19 tiết. Mỗi tiết là một câu trích lục trong các thiên Học nhi, Vi chính, Thái Bá…Qua 19 tiết này, ta thấy rõ sự đánh giá cao việc học của Khổng Tử. Người quân tử và kẻ tiểu nhân khác nhau về sự học vậy. Khổng Tử đã nói : “ Yêu thích điều nhân mà không ham học hỏi sẽ bị sự ngu dốt che lấp, yêu thích sự cương trực mà không ham thích sự học sẽ bị sự ngông cuồng che lấp..” (1) , nói như vậy có thể thấy rằng, nếu người ta không yêu chuộng sự học thì mọi sự đều không đến được sự tốt đẹp, thiện ý ban đầu. Như người rất yêu thích điều nhân như đã nói ở trên vậy. Yêu thích điều nhân là một điều tốt, nhưng nếu không ham học hỏi thì không đủ tri thức để biết giúp đỡ người khác sao cho hợp lý và chính đáng, sẽ bị sự ngu dốt che lấp đi cái tốt đẹp. Với người cương trực cũng vậy, ngay thẳng là một đức tính tốt đẹp, nhưng nếu ngay thẳng mà không chuộng học thì sẽ không biết phân biệt đúng sai, không kiềm chế được bản thân mình, dẫn tới bị coi là ngông cuồng. Vậy sự học là cần thiết, không học sẽ không thể trở thành bậc quân tử trong thiên hạ mà chỉ sánh được cùng với những kẻ tiểu nhân ít học thô kệch và quê mùa mà thôi. Tuy nhiên nếu chỉ ham học hỏi không thì chưa đủ, học phải đi đôi với hành. Khổng Tử chằng đã nói “ Học mà được luyện tập theo sự học đó chẳng phải là vui sao?” (2). Việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn sẽ giúp người học nhớ lâu hơn và có thể tự đúc rút kinh nghiệm cho bản thân mình. Ngoài ra, cũng phải biết cân đối sự học của mình, không thể để thái quá hay bất cập. Không chỉ học trên sách vở, lý thuyết mà còn học ở thực tế quanh mình, thấy người có đức phải gắng sức học theo. Thiên “Tiến Tu” gồm hai mươi mốt tiết. Nội dung chủ yếu của thiên này là giúp người học xác định rõ được chí hướng và biết rèn dũa bản thân mình, gắng gỏi không ngừng nghỉ noi theo điều thiện. Người ham học hỏi mà không có ý chí phấn đấu để tiếng trong thiên hạ thì không thể trở thành người quân tử, lại càng không thể đem sự học của mình để làm chính trị. Tuy nhiên có chí hướng rồi thì phải biết tu thân mình, trên đường đạt tới danh vọng không để vật dục câu thúc, che mờ những điều nhân nghĩa tốt đẹp. Người quân tử muốn theo đuổi sự nghiệp chính trị ắt phải biết tới văn chương sách vở, tuy nhiên nếu không lấy đức nhân nghĩa để thi hành thì sao có thể được lòng dân chúng? Nhưng Khổng Tử đã nói rằng hãy biết hiếu kính với cha mẹ, thuận hoà với huynh đệ nơi gia thất, nơi hương đảng trước đã, rồi đem ra thi hành, như vậy là làm chính trị rồi (3). Đối với mỗi người, không phân biệt sang hèn, quý tiện, hiếu kính với cha mẹ là điều quan trọng nhất. Tám tiết trong thiên Sự thân đã thể hiện nội dung khái quát về quan niệm chữ Hiếu của Khổng Tử. Đối với Khổng Tử, hiếu kính với cha mẹ không chỉ thể hiện ở vẻ ngoài mà phải xuất phát từ tấm lòng người con. Nếu người ngày nay coi việc nuôi dưỡng cha mẹ đã được coi là hiếu rồi thì Khổng Tử đã nói rằng đến như loài chó ngựa còn được nuôi dưỡng, nếu nuôi dưỡng cha mẹ mà bất kính thì lấy gì mà phân biệt với loài chó ngựa đây? (4) Trì là giữ gìn, ước thúc và rèn dũa. Vậy “Trì kỷ” là giữ gìn và ước thúc bản thân mình theo một chuẩn mực. Với ba mươi tư tiết, số lượng tiết nhiều nhất tác phẩm Luận ngữ tinh hoa, thiên “Trì kỷ” được coi là thiên mục quan trọng nhất trong tác phẩm này. Muốn làm chính trị, được lòng dân thì trước hết bản thân mình phải sùng đức, chuộng điều nhân, vậy nên người quân tử lấy việc tu thân trì kỷ làm đầu. Bề trên hiếu lễ, kẻ dưới không dám bất kính. Bề trên hiếu nghĩa, kẻ dưới không dám không nghe theo. Bề trên trung tín, kẻ dưới không dám khinh nhờn (5). Vậy nên người quân tử muốn làm tốt chính trị, trước hết phải biết rèn dũa đức tính của mình, lấy bản thân mình làm gương để người dưới noi theo. Nội dung chính của thiên “Trì kỷ” này là trích lục các câu trong Luận ngữ của Khổng Tử dạy học trò cách rèn dũa đức tính ngay trong xử sự hàng ngày, không để thái quá hay bất cập. Bản thân phải luôn giữ mình nghiêm trang kính cẩn, theo đúng lễ mà xử sự(6), ắt có thể đưa mình vào khuôn phép chuẩn mực. Thiên “Tiếp vật” gồm hai mươi tư tiết. Nếu như thiên “Trì kỷ” dạy người quân tử biết cách rèn dũa bản thân mình thì ở chương này lại hướng cho người quân tử đi đến tiếp xúc với sự vật, qua đó mới biết cách cư xử sao cho phù hợp. Ví như trong thiên Vệ Linh Công sách Luận ngữ có trích lời Khổng Tử nói rằng người quân tử lấy nghĩa làm bản chất, dùng lễ để làm theo, nói năng từ tốn, lấy lòng tín để thành tựu (7). Người quân tử lấy lễ làm chuẩn mực, noi theo điều nghĩa, nói năng chậm rãi, không cần nhiều lời, một lòng trung tín khi làm việc, noi theo được bốn điều đó ắt sẽ có những cư xử đúng đắn. Đây cũng là một chuẩn mực đánh giá người quân tử. Có làm được chính trị hay không phần nhiều thể hiện ở cách cư xử hàng ngày trong mọi việc. Nội dung của thiên “Quan nhân” ( gồm hai mươi tư tiết ) chỉ rõ các hạng người, có thể dễ dàng thấu rõ được thông qua cử chỉ, hành động và dung nhan, giúp người quân tử nhìn rõ được bản chất mà có cách cư xử sao cho phù hợp. Điều thể hiện sự tài giỏi của người cầm quyền không dừng lại ở chỗ tuỳ thời mà có cách cư xử khác nhau sao cho thích hợp mà vẫn theo điều nhân nghĩa, không trái với lễ, mà còn thể hiện ở chỗ biết nhìn người và dùng người. Muốn có người tài để phụ giúp mình việc chính trị, ắt người cầm qưyền phải biết cách nhìn người để thấu rõ tâm can họ. Ví như người có lời nói dễ nghe nhưng sắc mặt lạnh lùng thì là người ít điều nhân (8), hay như kẻ bên ngoài thì tỏ ra mạnh mẽ mà bên trong lại là kẻ nhu nhược thì ắt là kẻ tiểu nhân, chỉ đào tường đi ăn cắp mà thôi (9), hay người nhân thường là người cứng rắn, quả quyết, giản dị mà chậm rãi (10). Nghe qua thì tưởng đơn giản nhưng không phải ai cũng nhìn thấu triệt một con người, chỉ có bậc quân tử tài đức vẹn toàn mới có thể làm được. Thiên “Xử thế” gồm hai mươi tư tiết. Nội dung chính của thiên này là dạy người quân tử cách xử sự trung dung. Điều khác biệt giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử là ở chỗ người quân tử thì trung dung còn tiểu nhân thì thái quá hay bất cập. Như người quân tử thì rộng rãi mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân thì kiêu căng mà không rộng rãi (11) hay người quân từ hoà hảo nhưng không đồng nhập, kẻ tiểu nhân đồng nhập nhưng không hoà hảo (12). Mọi việc làm và hành động của người quân tử đều phải lấy nhân nghĩa làm đầu, có như vậy mới được mọi người xung quanh nể trọng. Thiên “Vi chính” gồm hai mươi bảy tiết. Nội dung chủ yếu của hai mươi bảy tiết này là dạy người quân tử biết cách trị dân. Lấy dân làm gốc là điều căn bản mà bất cứ nhà cầm quyền nào cũng phải biết. Nhưng làm thế nào để dân nể phục mà theo thì quả thực không đơn giản. Theo Khổng Tử, nếu người trên yêu chuộng lễ thì kẻ dưới không dám bất kính, nếu người trên yêu chuộng điều nghĩa thì kẻ dưới không dám không phục, nếu người trên chuộng điều tín thì kẻ dưới không dàm khinh nhờn (13). Người trên yêu chuộng điều lễ, lấy lễ ước thúc bản thân mình thì ắt người dưới sẽ dễ sai bảo (14). Ngoài ra ở cương vị người cầm quyền, phải biết đặt những điều lợi ích cho dân chúng làm trọng, thấy khó khăn thì không được mệt mỏi. Tám thiên Học vấn, Tiến tu, Sự thân, Trì kỷ, Tiếp vật, Quan nhân, Xử thế, Vi chính đã đưa người học từng bước đi từ tu kỷ đến trị nhân, từ đạo đức tới chính trị. Với những câu trích lục từ sách Luận ngữ ngắn gọn, súc tích, Luận ngữ tinh hoa không đơn giản chỉ là cuốn sách dạy trẻ nhỏ chữ Hán mà còn là một cuốn Luận ngữ thu nhỏ. Thông qua cách phân chia các thiên mục và cách chọn lựa các câu để trích lục của tác giả, người học có thể nắm được tinh thần của toàn bộ sách Luận ngữ, ngoài ra còn hướng người đọc dễ dàng tiếp cận kinh điển Nho gia. Tại thời điểm này khoa cử sắp bị bãi bỏ, kinh nghĩa không thi nữa, người ta không học kinh Luận ngữ theo dạng đại toàn nữa mà cần chắt lọc tinh hoa, giản tiện mà có hệ thống để phù hợp với tình hình thực tế. * So sánh cách phân chia thiên mục trong sách Luận ngữ tinh hoa với cách phân chia thiên mục trong các tác phẩm viết về Luận ngữ khác. Ở trong khuôn khổ Niên luận này, chúng tôi không có điều kiện để khảo sát hết các tác phẩm viết về Luận ngữ khác, mà chỉ lấy hai tác phẩm tiêu biểu là Luận ngữ ngu án ( Phạm Nguyễn Du ) và Luận ngữ tiết yếu ( Lê Văn Ngữ ) để thực hiện việc so sánh. Sở dĩ chúng tôi chọn hai tác phẩm này vì hình thức và bố cục tác phẩm tương đối có những nét tương đồng với Luận ngữ tinh hoa. Như hình thức hai tác phẩm này đều là dạng Luận ngữ tiết yếu, bố cục tác phẩm đều c
Luận văn liên quan