Trong thời kì hội nhập –thời kì mà cả nhân loại đang hướng tới nói chung và thời kì công nghiệp hóa –hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng thì việc nâng cao chất lượng giáo dục -đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự phát triển kinh tế- xã hội đang là một yêu cầu khách quan và bức thiết ở nước ta hiện nay. Đại hội lần thứ VI (1986)của Đảng đã xác định :Cái thiếu lớn nhất của đất nước ta khi chuyển sang thời kì đổi mới là sự thiếu thốn về tri thức kinh tế thị trường, đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề từ đó Đảng đã đưa ra quyết định đúng đắn:”Gíao dục là quốc sách hàng đầu”.Với mục đích đó, công tác giáo dục hiện nay bên cạnh việc trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học tự nhiên,khoa học kĩ thuật tiên tiến.còn cần trang bị cho họ những tri thức về chính con người.
Học tập là một quá trình nhận thức đặc biệt trong đó sinh viên đóng vai trò chủ thể của hoạt động này.Thái độ học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên.Sinh viên chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và biến nó thành giá trị riêng nếu họ kiên trì và nỗ lực hoạt động trí tuệ để tự khám phá, phát hiện ra tri thức.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu”Thái độ học tập của sinh viên”làm đề tài cho niên luận của mình.
29 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3938 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Thái độ học tập của sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa tâm lý học
---------------
Niên Luận
Thái độ học tập của sinh viên
Hà Nội, 01-2008
Lời cảm ơn.
Để hoàn thành niên luận này em xin bày tỏ long biết ơn tới giáo viên đã hết sức nhiệt tình hướng dẫn em cũng như tạo điều kiện tốt nhất để em có đủ cơ sở dữ liệu hoàn thành đó là TS.Trương Khánh Hà.
Bên cạnh đó, em cũng xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến toàn thể khoa Tâm Lý học cùng các thầy cô và toàn thể các bạn sinh viên đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn.
Quỳnh Anh
I. Phần mở đầu.
1.Lý do chọn đề tài.
Trong thời kì hội nhập –thời kì mà cả nhân loại đang hướng tới nói chung và thời kì công nghiệp hóa –hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng thì việc nâng cao chất lượng giáo dục -đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự phát triển kinh tế- xã hội đang là một yêu cầu khách quan và bức thiết ở nước ta hiện nay. Đại hội lần thứ VI (1986)của Đảng đã xác định :Cái thiếu lớn nhất của đất nước ta khi chuyển sang thời kì đổi mới là sự thiếu thốn về tri thức kinh tế thị trường, đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề từ đó Đảng đã đưa ra quyết định đúng đắn:”Gíao dục là quốc sách hàng đầu”.Với mục đích đó, công tác giáo dục hiện nay bên cạnh việc trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học tự nhiên,khoa học kĩ thuật tiên tiến...còn cần trang bị cho họ những tri thức về chính con người.
Học tập là một quá trình nhận thức đặc biệt trong đó sinh viên đóng vai trò chủ thể của hoạt động này.Thái độ học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên.Sinh viên chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và biến nó thành giá trị riêng nếu họ kiên trì và nỗ lực hoạt động trí tuệ để tự khám phá, phát hiện ra tri thức.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu”Thái độ học tập của sinh viên”làm đề tài cho niên luận của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu.
Thái độ học tập của sinh viên.
3. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nhằm xác định thực trạng thái độ học tập của sinh viên và nguyên nhân của thực trạng đó, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị góp phần nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu các tài liệu, văn bản có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Chúng tôi chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu và phân tích những tài liệu lý luận có liên quan đến vấn đề thái độ. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, cụ thể là làm rõ nội hàm khái niệm thái độ, cấu trúc,đặc điểm cũng như mối quan hệ giữa khái niệm thái độ với các hiện tượng tâm lý, xây dựng khái niệm thái độ học tập của sinh viên và xác định tiêu chí để đánh giá thái độ học tập của sinh viên.
II. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên.
1.Nghiên cứu thái độ học tập ở nước ngoài.
Trong tâm lý học dạy học ở Liên Xô cũ, thái độ học tập không được nghiên cứu riêng rẽ mà lồng vào trong nghiên cứu động cơ, hứng thú học tập.Các tác giả tiêu biểu đã có công trình nghiên cứu về động cơ học tập của học sinh-sinh viên như: I.L.Bogiovic(1951),A.K.Marcova (1983), Machikhina, A.I.Kovaliov(1987).
Theo tác giả G.Witzlack,về cơ bản thái độ học tập và thái độ làm việc thống nhất với nhau. Ông cũng phân tích thái độ học tập trong các hình thức học tập khác nhau như thái độ học tập trên lớp, thái độ tự học...Trong các hình thức học tập ấy tác giả lại đưa ra những “điểm tựa”cho sự đánh giá thái độ học tập như:sự nỗ lực nhận thức, sự sẵn sàng thực hiện những nhiệm vụ học tập, tự đặt ra những yêu cầu cao về thành tích học tập của bản thân, sự phản ứng với những thể nghiệm thành công hay thất bại trong học tập, tinh thần vận dụng kiến thức.
N.P.Lêvitốp cho rằng thái độ học tập tích cực của người học thể hiện ở chỗ:người học chú ý, hứng thú va sẵn sàng gắng sức vượt khó khăn .Tác giả đã phân tích tỉ mỉ những mặt biểu hiện này trên hành vi học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp cũng như tự học.Những nghiên cứu này rất có ý nghĩa đối với những nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên.
Tác giả S.Frans đã đưa ra tiêu chuẩn đánh giá về thái độ học tập và đã được thừa nhận có thể sử dụng rộng rãi.Theo tác giả này, những nội dung chung nhất về thái độ học tập tích cực đồng thời cũng bao quát được tương đối đầy đủ mọi mặt thể hiện của thái độ học tập bao gồm 10 mặt biểu hiện như sau:
+Trên lớp chú ý nghe giảng.
+Học bài và làm bài đầy đủ.
+Cố gắng vươn lên trong học tập.
+Không vội vàng phản ứng nếu có chỗ nào chưa hiểu hoặc không nhất trí với bài giảng.
+Đảm bảo kỉ luật học tập để học tốt.
+Cố gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập của mình một cách trung thực.
+Thích độc lập tự thực hiện nhiệm vụ.
+Hăng hái nhiệt tình trong giờ chữa bài tập và gời thảo luận.
+Hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc.
+Giữ gìn tài liệu một cách cẩn thận.
Nhìn chung,các nghiên cứu về thái độ học tập của các tác giả nước ngoài đã đạt được những thành quả nhất định và đã được công nhận rộng rãi, là cơ sở cho các tác giả Việt Nam tham khảo khi nghiên cứu về lĩnh vực này.
2.Nghiên cứu thái độ học tập ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu thành tựu của tâm lý học thế giới và thực tiễn tâm lý học nước nhà, các nhà tâm lý học Việt Nam đã quan tâm tìm hiểu về thái độ học tập của người học nhằm đạt dược mục tiêu của công tác giáo dục.
Để đánh giá thực trạng thái độ học tập của học sinh, GS.Hoàng Đức Nhuận va PGS. Lê Đức Phúc đã nêu ra những chỉ số như:chú ý, hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, học thêm và làm các bài tập, vận dụng hoặc chuyển tải những gì đã học vào thực tế,hình thành và phát triển các quan hệ thầy-trò, quan hệ tình bạn nhằm giúp bản thân học tập tốt hơn, nâng cao chất lượng và kết quả học tập.
Theo tác giả Đào Lan Hương:” Thái độ học tập là một bộ phận cấu thành đồng thời là một thuộc tính cơ bản toàn vẹn của ý thức học tập của chủ thể, là yếu tố quy định tính tự giác, tích cực học tập và thể hiện bằng những cảm xúc, hành động tương ứng”.(Tự đánh giá thái độ học tập môn Toán của sinh viên, Tạp chí nghiên cứu giáo dục,số 3-1998).
Thái độ học tập còn được coi là một trong những biểu hiện của động cơ học tập(Phạm Minh Hạc, giáo trình dùng cho các trường ĐHSP, tập 1, NXB Giáo dục Hà Nội,1988, trang73)
Theo tác giả Dương Như Xuyên, thái độ học tập là một trong những cơ sở tâm lý quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân của sinh viên ĐHSP(Dương Như Xuyên,một vài cơ sở tâm lý của việc đào tạo tay nghề sư phạm trong qui trình đào tạo mới,kỉ yếu hội thảo khoa học nhân dịp kỉ niệm 30 năm thành lập khoa tâm lý _Giaos dục ĐHSPHN).
Có thể kể đến một số tài liệu liên quan tới thái độ học tập như sau:
“Quan hệ giữa tự đánh giá của học sinh với thái độ học tập và động cơ học tập ‘’(Lê Ngọc Lan, kỉ yếu hội thảo Tâm lý học toàm quốc lần thứ năm, Hà Nội, 1982).
“Thái độ học tập của sinh viên Đại học An Ninh Nhân Dân ‘’của Nguyễn Đức Hưởng (luận văn Thạc sĩ Tâm lý học)
“Thái độ học tập của sinh viên trường ĐHSPKT Hưng Yên ”của Lê Ngọc Phương(luận văn của thạc sĩ Tâm lý học)...
Nhìn chung, những đề tài về thái độ học tập thì có số lượng khá lớn.Nhưng với những đề tài về thái độ học tập nêu trên đã đạt được những kết quả nhất định trong việc chỉ ra thực trạng thái độ học tập nói chung và thái độ học tập đối với một số môn học của một số nhóm khách thể .
III.Các khái niệm cơ bản
1.Hoạt động học tập của sinh viên
1.1.Đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên.
Tuổi sinh viên là lứa tuổi có sự chín muồi về thể chất và đang trong giai đoạn chuẩn bị để trong tương lai trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể .Sinh viên là một công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp luật.ở lứa tuổi này thì những đặc điểm phát triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ sống và hoạt động sẽ chi phối đặc điểm sinh lý của thanh niên sinh viên .Sinh viên là con người thuộc một lứa tuổi nhất định và là một nhân cách nên có thể xác định về 3 phương diện:sinh lý, tâm lý va xã hội .Về mặt sinh học thì đây là giai đoạn hoàn tất sự thay đổi da thịt của những thiếu niên còn có vẻ nam tính thành những thiếu niên nam, nữ riêng biệt do sự tăng hormon nam trong cơ thể nam nên tới mức nhiều gấp 10-15 lần và ngược lại,hormon nữ trong cơ thể nữ cũng có số lượng nhiều để áp đảo tác dụng của một phần hormon nam còn xót lại trong cơ thể nữ.Trọng lượng não ở tuổi này đạt ở trọng lượng tối đa (khoảng 1400gr)và chứa khoảng 14-16 tỉ nơron .ở lứa tuổi thanh niên sinh viên còn có nhiều yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh hưởng của điều kiện sống và giáo dục .Đây là một nhóm xã hội dặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho việc tham gia vào cuộc sống tinh thần của xã hội .Những đặc điểm phát triển tâm sinh lí của họ rất phong phú, đa dạng và không đồng đều.Những đặc điểm tâm sinh lí của sinh viên bao gồm:
Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới .
Sự thích nghi ấy tập trung chủ yếu ở :nội dung học tập mang tính chuyên nghành;phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học;môi trường sinh học mở rộng phạm vi quốc gia thậm chí quốc tế ;nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô-bạn bè và các tổ chức xã hội phong phú,đa dạng...
Với mỗi sinh viên khác nhau thì sự thích ứng cũng khác nhau tùy thuộc vào tâm lý cá nhân và môi trường sống cụ thể qui định.Nhiều công trình nghiên cứu cũng cho thấy :Nhìn chung sau một thời gian học tập ở trường đại học cao đẳng,đa số sinh viên thích ứng khá nhanh chóng với môi trường xã hội mới trên cơ sở tình bạn của những người trẻ tuổi . Khó khăn mà sinh viên phải gặp là sự thích nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất nghiên cứu khoa học và học nghề đối với những chuyên gia tương lai.
Có thể nói, sự thích nghi có ảnh hưởng trực tiếp trong học tập của sinh viên.
Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ của sinh viên .
Hoạt động nhận thức của sinh viên chủ yếu là đi sâu, tìm hiểu môn học,những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để nắm được đối tượng,nhiệm vụ,phương pháp, qui luật của các khoa học đó,với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định .Hoạt động nhận thức của họ một mặt phải kế thừa những thành tựu đã có,mặt khác phải tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại mang tinh thời sự .Có thể nêu ra các đặc điểm sau đây trong hoạt động nhận thức của sinh viên:
+) Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp và phẩm chát nhân cách của người chuyên gia tương lai.
+) Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch,mục đích, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp, đào tạo phù hợp nhằm phát huy năng lực sở trường cử sinh viên .
+) Phương tiện hoạt động thực tiễn của sinh viên được mở rộng và phong phú với các thư viện, tài liệu từ phòng đọc, phòng thực nghiệm ...
+) Phương pháp học tập mới được coi à nhiệm vụ rất quan trọng mà sinh viên phải tìm ra .Bởi có phương pháp học tập phù hợp thì mới đạt dược kết quả học tập tốt.
Sự phát triển động cơ học tập của sinh viên.
Động cơ học tập là nội dung tâm lý của hoạt động học tập.Động cơ học tập bị chi phối bởi những yếu tố tâm lý(hứng thú, tâm thế, niềm tin...),hay những yếu tố nằm ngoài bản thân chủ thể(yêu cầu của gia đình xã hội)hay do chính hoạt động và những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại(nội dung, phương pháp dạy học...)
Với sinh viên, việc học tập của họ bị chi phối bởi nhiều động cơ như động cơ liên quan đến sự tự khẳng định, tự ý thức về năng lực, phẩm chất của người thanh niên trưởng thành,những động cơ có tính xã hội...Lĩnh vực động cơ của sinh viên cũng chịu sự chi phối của các cán bộ giảng dạy trong việc tổ chúc hoạt động dạy học. Việc phát triển những động cơ tích cực của hoạt động học tập ở sinh viên phụ thuộc vào một số điều kiện sư phạm nhất định.
Đời sống xúc cảm-tình cảm của sinh viên.
Theo B.G.Ananhev va một số nhà tâm lý học khác, tuổi sinh viên là thời kì phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức,tình cảm thẩm mỹ.Trong đời sống sinh viên những tình cảm này được biểu hiện rất phong phú.
+)Tình cảm trí tuệ:ngoài học tập ở giảng đường, ở thư viện thì sinh viên không ngừng nâng cao và tìm hiểu kiến thức bằng nhiều cách:học thêm ở khoa khác, trường khác, học trên các phương tiện thông tin đại chúng...Nhờ đó mà lượng tri thức của sinh viên được tích lũy ngày càng nhiều.
+)Tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ:Khi yêu thích cái gì thì họ có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở. Vì thế mà cách cảm, cách nghĩ có phong cách kiến trúc, hội họa ...của sinh viên mang những nét đặc trưng riêng
+)Tình bạn cùng giới, khác giới:phát triển theo chiều sâu và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống sinh viên.Nhờ có tình bạn mà tâm hồn cũng như nhân cách của sinh viên phong phú hơn rất nhiều.
+)Tình yêu nam nữ: là tình cảm đặc biệt và cao cấp của con người, nó chín vào độ tuổi mà sinh viên trải qua.Nói chung, tình yêu thời sinh viên rất đẹp, lãng mạn và đầy thi vị.Song trong lĩnh vực này, sinh viên cũng gặp phải những mâu thuẫn nội tại. Vì thế, nhiều sinh viên đã chọn con đường tập trung học tập, học nghề trong thời gian học Đại học, Cao đẳng. Cách này đã đem lại cho họ kết quả học tập cao cũng như sự vững vàng và chín chắn hơn trong cuộc sống.
Sự phát triển một số nhân cách của sinh viên .
+) Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục ở sinh viên.
Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng,một trình độ phát triển cao của nhân cách.Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng,điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt được mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác.Nó giúp con người không chỉ biets người mà còn “biết mình”.ở thời kì sinh viên,tự đánh giá phát triển mạnh với những biểu hiện phong phú và sâu sắc.Tự đánh giá tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu nhập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiên và phát triển........
Đặc điểm tự đánh giá ở sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc.Biểu hiện của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình có tính chất bên ngoài, hình thức mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách.Tự đánh giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức vừa có ý nghĩa tự giáo dục.
Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi, cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội.Những nghiên cứu của V.X.Merlin và E.I.Ilin đã cho thấy sinh viên rất quan tâm đến mức độ đánh giá tốc độ phản ứng của mình trong học tập, trong giao tiếp – phản ứng đung svaf nhanh các đòi hỏi của hoàn cảnh bên ngoài là một năng lực của nhân cách và rất có ý nghĩa đối với hoạt động của sinh viên.Tóm lại, những phẩm chất nhân cách: tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, sự tự ý thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sin viên.
+) Sự phát triển về định hướng giá trị ở thanh niên sinh viên.
Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể nhằm vươn tới nhũng giá trị đó.Định hướng giá trị có nhiều tầng bậc, phạm vi khác nhau .Định hướng giá trị có tính bền vững tương đối.Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên đầu tuổi thanh niên khi họ phải đúng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên nghành khác nhau trong việc thi vào các trường ĐH- CĐ.Trong thời kì mở cửa của nền kinh tế thị trường, những định hướng giá trị của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng cũng đã có những thay đổi, những sự phân hóa nhất định.Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết đến xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ.Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lí tưởng của tuổi thanh xuân dần dần được hiện thực, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường đại học.Sinh viên không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó.Họ không ngần ngại tìm việc làm thêm để thỏa mãn những yêu cầu học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành n ghề sau này.
1.2. Định nghĩa hoạt động học tập :
- Để tìm kiếm và nắm vững các tri thức kĩ năng, kĩ xảo mới có rất nhiều con dường và cách hoc.Nhưng khi noi sđến hoạt động học tập đúng với nghĩa tâm lí học chỉ nảy sinh và được hình thành ở trẻ em từ sáu tuổi nhờ có phương pháp của nhà trường .Hoạt động này tạo ra sự biến đổi ngay chính chủ thể của hoạt động là học sinh hay sinh viên
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập:
- L.B.Enconhin nêu lên việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của hoạt động học tập và được xác định bởi cấu trúc và mức độ phát triển của hoạt động học tập.
- I.B.Intenxon xác định học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người có mục đích nắm vững những tri thức, kĩ năng kĩ xảo và các hình thức nhất định của hành vi.Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn.
- A.N.Leonchiev, P.Ia.Ganperin và N.P.Taludina xem quá trình học tập xuất phát từ mục đích trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức tâm lí bên ngoài và bên trong của hoạt động đó.
- N.V.Cudomina coi học tập là loại hoạt động nhận thức cơ bản của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy.Trong quá trình đó, việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai.
Qua các định nghĩa trên chúng tôi nhận thấy giữa các tác giả có sự chưa thống nhất về định nghĩa hoạt động học tập vì vậy chúng tôi xin đưa ra quan điểm, cách hiểu của mình về hoạt động học tập.Hoạt động học tập được định nghĩa như sau: “ Hoạt động học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người với mục đích đã được đề ra từ đầu là nhằm tiếp thu tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ tương ứng.Nhờ có hoạt động học tập mà tâm lí nhân cách của người học ngày càng phát triển.
Bản chất của hoạt động học tập.
Đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ tương ứng của nó.
Cái đích mà hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ thông qua sự tái tạo của cá nhân.Việc tái tạo này sẽ không thể thực hiện nếu người học chỉ là khách thể bị động của những tác động sư phạm, nếu tri thức chỉ được tiếp n hận một cách thụ động.Muốn học có kết quả, người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân mình.
.Mục đích của hoạt động học là hướng vào làm thay đổi chính bản thân người học ( trong khi các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể ) .Chủ thể hoạt động học là người học ( nhân vật chính của hoạt động học) sẽ chiếm lĩnh tri thức mà loài người đã tích lũy - đối tượng của hoạt động học.Nhờ có sự chiếm lĩnh này mà tâm lí chủ thể mới có thể được thay đổi và phát triển.Người học giác ngộ mục đích này càng sâu sắc thì sức mạnh vật chất và tinh thần của họ càng được huy động trong quá trình học tập, do đó tâm lí ngày càng phát triển.
Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp thu tri thức, kĩ năng kĩ xảo.Sự tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong hoạt động học mang tính tự giác cao.Đối tượng tiếp thu đã trở thành mục đích của hoạt động học.Những tri thức cũng được chọn lọc tinh tế và tổ chức thành hệ thống.
Hoạt động học không chỉ nhằm tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu tri thức của chính bản thân hoạt động, nói cách khác là tiếp thu cả phương pháp giành lấy tri thức ( phương pháp học ).
Công cụ, phương tiện của hoạt động học tập.
Công cụ, phương tiện chính là những tri thức mà người học đã được học và đã nắm vững.
Công cụ, p