Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng không chỉ trong hệ thống pháp luật của nhiều nước mà còn thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. Chế định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì nó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho những trẻ em không những chỉ non nớt về thể chất và trí tuệ mà còn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội.
Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, thực hiện. Tuy mỗi nước có những quy định khác nhau về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi, nhưng đều có chung một mục đích đó là nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Kể từ khi Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, giao lưu về mọi mặt giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày càng phát triển, thì các quan hệ về hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài, trong đó có các quan hệ nuôi con nuôi, đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội thu hút sự quan tâm của nhiều người, cả ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đó, việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, không chỉ về pháp luật mà có thể cả về các định chế. Qua tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trong những năm vừa qua, một vấn đề có tính cấp thiết được đặt ra đối với Việt Nam là cần nghiên cứu, tham gia các Công ước quốc tế đa phương, ký kết các điều ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ chế hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực này, đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện được hưởng những gì tốt đẹp nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mặt thủ tục cho cha mẹ nuôi trong lĩnh vực này. Mặt khác cũng nhằm hạn chế đến mức tối đa những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc hội nhập nhất là trong việc chuẩn bị gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, do đó việc làm cho pháp luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều nước về nuôi con nuôi là việc làm cấp bách. Chính vì mục đích như vậy, mà em đã chọn đề tài “ Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước “, để thấy rõ những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt Nam với Công ước La Hay 1993. Để từ đó có những giải pháp phù hợp trong quá trình Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993.
Khoá luận được cấu thành bởi 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Chương II : Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Chương III : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
58 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8324 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng không chỉ trong hệ thống pháp luật của nhiều nước mà còn thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. Chế định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì nó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho những trẻ em không những chỉ non nớt về thể chất và trí tuệ mà còn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội.
Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, thực hiện. Tuy mỗi nước có những quy định khác nhau về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi, nhưng đều có chung một mục đích đó là nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Kể từ khi Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, giao lưu về mọi mặt giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày càng phát triển, thì các quan hệ về hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài, trong đó có các quan hệ nuôi con nuôi, đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội thu hút sự quan tâm của nhiều người, cả ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đó, việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, không chỉ về pháp luật mà có thể cả về các định chế. Qua tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trong những năm vừa qua, một vấn đề có tính cấp thiết được đặt ra đối với Việt Nam là cần nghiên cứu, tham gia các Công ước quốc tế đa phương, ký kết các điều ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ chế hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực này, đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện được hưởng những gì tốt đẹp nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mặt thủ tục cho cha mẹ nuôi trong lĩnh vực này. Mặt khác cũng nhằm hạn chế đến mức tối đa những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc hội nhập nhất là trong việc chuẩn bị gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, do đó việc làm cho pháp luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều nước về nuôi con nuôi là việc làm cấp bách. Chính vì mục đích như vậy, mà em đã chọn đề tài “ Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước “, để thấy rõ những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt Nam với Công ước La Hay 1993. Để từ đó có những giải pháp phù hợp trong quá trình Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993.
Khoá luận được cấu thành bởi 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Chương II : Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Chương III : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Bài khóa luận được hoàn thiện dựa trên việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với các phương pháp như : phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, thống kê và đối chiếu để giải quyết những vấn đề đã được xác định trong đề tài.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.1.1 Khái niệm nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, nó góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con nuôi, trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha, mẹ và con cái.
Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi, tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất cụ thể về vấn đề này. Điều 67 : “ Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội “. Đây chính là khung pháp lý quan trọng nhằm xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ và con nuôi và là cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau.
Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là vấn đề hiện được nhiều nước trên thế giới quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu và đã được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước.
Ở nước ta trong những năm gần đây nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng việc ban hành nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm xử lý những sai phạm, làm cho việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thực sự mang tính nhân đạo, tìm mái ấm gia đình và hạnh phúc cho trẻ em.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài chính là quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh trong đời sống quốc tế và quan hệ dân sự này luôn có đặc trưng là mang “ yếu tố nước ngoài “. Yếu tố nước ngoài đã được khẳng định một cách rất rõ ràng trong Bộ Luật Dân sự (Điều 826), Nghị định 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 1) đã khẳng định : “ Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài ”. Cũng theo Nghị Định 60/CP thì “ người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch “.
Từ quy định trên, có thể suy ra rằng : quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây :
Có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia ;
Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài
Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung trong đó có quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại Khoản 14 - Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó : Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ hôn nhân và gia đình :
Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;
Giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau;
Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Ngoài ra, Điều 100-Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn ghi nhận “ Các quy định của chương XI về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài “.
Như vậy, theo quy định trên thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm các quan hệ sau :
1. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài.
2. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
3. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
4. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại Việt Nam.
Theo các trường hợp trên, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau ở Việt Nam.
1.2 Đặc trưng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.2.1 Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn mang yếu tố nước ngoài.
Như trên đã phân tích, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm các loại quan hệ (phần 1.1.2), mà quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa hai bên chủ thể khác quốc tịch hoặc cùng quốc tịch nhưng sự kiện nhận nuôi con nuôi xảy ra ở nước ngoài nhằm bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Do vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm :
1.2.1.1 Yếu tố chủ thể :
Khi đề cập đến yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, có hai loại chủ thể cơ bản :
Thứ nhất : Công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phải có quyền năng chủ thể tức là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi trước tiên theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính của chủ thể pháp luật, là đặc trưng không thể thiếu của chủ thể pháp luật. Vấn đề năng lực pháp luật và năng lực hành vi ở đây trước hết được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Thứ hai : Bên cạnh đó, người nước ngoài cũng là chủ thể cơ bản của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật của nhiều nước trên thế giới có nét đặc trưng chung là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài. Có thể khái quát, người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước sở tại. Để tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi trước tiên là theo pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc pháp luật của nước mà người đó thường trú nếu người đó là người không quốc tịch.
Tại Điều 830 Bộ luật Dân sự Việt Nam thì người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ các trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, để người nước ngoài tham gia trực tiếp vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực hành vi. Ở Việt Nam năng lực hành vi được quy định tại Điều 831 Bộ Luật Dân sự. Như theo Điều 831 thì Việt Nam đã sử dụng chủ yếu nguyên tắc luật quốc tịch để xác định năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài. Ngoài ra, trong một số trường hợp năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật dân sự Việt Nam.
1.2.1.2 Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi xảy ra ở nước ngoài.
Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi phải là sự kiện pháp lí xảy ra ở nước ngoài. Nó có thể là sự kiện, hành vi…phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài. Sự kiện pháp lí còn là hành vi pháp lí. Hành vi pháp lí là hành vi hợp pháp xảy ra do các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi thực hiện (làm chấm dứt quan hệ về nhân thân và tài sản của đứa trẻ với cha, mẹ đẻ và làm phát sinh những quan hệ đó giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi). Hành vi của những người tham gia quan hệ pháp luật nuôi con nuôi nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi cần thiết phải có cả quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận sự kiện hoặc hành vi theo thủ tục luật định. Ví dụ : Để cho việc xác nhận con nuôi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người nhận nuôi và con nuôi thì cần thiết phải có quyết định về việc nhận con nuôi của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Uỷ ban nhân xã nếu việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.
Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là sự kiện pháp lí xảy ra ở nước ngoài. Về việc nhận nuôi con nuôi ở nước ngoài, pháp luật Việt Nam thường sử dụng quy tắc luật nơi thực hiện hành vi để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh trong quan hệ này. Trong trường hợp Việt Nam và nước hữu quan kí kết điều ước quốc tế thì xung đột pháp luật trong vấn đề này được điều chỉnh theo các quy phạm pháp luật ghi nhận trong các điều ước đó.
Như vậy, việc xác định đúng thời điểm mà sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh giữa các bên, từ đó áp dụng luật chính xác trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Yếu tố cư trú của các bên đương sự.
Theo Pháp luật Việt Nam (Điều 826-Bộ Luật Dân Sự) chỉ nói đến ba yếu tố nước ngoài. Nhưng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định bổ sung thêm yếu tố cư trú của các đương sự tham gia vào quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, khi nói đến yếu tố cư trú của đương sự tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra hai trường hợp :
Thứ nhất : Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Theo quy định tại Điều 100 - Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì các quy định của Chương XI (quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài) cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay khi số lượng người Việt Nam cư trú ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng tăng lên. Do vậy, việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên cư trú ở nước ngoài là hết sức cần thiết. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình, pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của họ là pháp luật Việt Nam, tức là áp dụng quy tắc Luật quốc tịch. Việc quy định như vậy là hoàn toàn hợp lí, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi khi họ tham gia tại Việt Nam.
Thứ hai : Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Hiện nay, quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam phát sinh ngày càng nhiều. Trước tình hình đó, pháp luật Việt Nam đã có quy định điều chỉnh quan hệ giữa họ với nhau ở Việt Nam. Pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khi họ tham gia tại Việt Nam là pháp luật Việt Nam, tức là áp dụng quy tắc luật nơi cư trú của đương sự. Quy tắc này được ghi nhận tại Điều 105 - khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc áp dụng luật nơi cư trú để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khi người nước ngoài tham gia tại Việt Nam là phù hợp với thực tế vì khi họ cư trú tại Việt Nam các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam sẽ giải quyết vụ việc nhanh chóng và thuận lợi do không phải áp dụng pháp luật nước ngoài.
Như vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được mở rộng hơn trước đây. Việc mở rộng yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Phương pháp điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài trong đó có quan hệ nuôi con nuôi là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hoà và tác động tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.2.2.1 Phương pháp xung đột.
Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc được ấn định để áp dụng pháp luật của một nước chỉ định nhằm giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phát sinh thông qua các quy phạm xung đột [3].
Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật ấn định pháp luật của nước nào phải được áp dụng để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể. Như vậy, quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật “dẫn chiếu“, theo đó các cơ quan có thẩm quyền chọn được hệ thống pháp luật tối ưu để điểu chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Khác với các loại quy phạm pháp luật thông thường, quy phạm xung đột được cấu thành bởi hai bộ phận là phạm vi (tương tự phần “ giả định “) và hệ thuộc (tương tự phần “ quy định”), không có phần chế tài.
Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, các nước thường sử dụng một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau : Luật nhân thân (lex personalis) bao gồm luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi cư trú (lex domicilii); luật nơi thực hiện hành vi (lex loci astus) và luật toà án (lex fori).
Ở Việt Nam, quy phạm xung đột về vấn đề nuôi con nuôi được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và một số văn bản khác. Ngoài ra, quy phạm xung đột còn được ghi nhận trong Hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) Việt Nam đã kí kết với các nước. Ví dụ như : Theo Điều 29 HĐTTTP Việt Nam – Bungari; Điều 30 HĐTTTP Việt Nam – Ba lan ; Điều 29 HĐTTTP Việt Nam – Mông Cổ đều khẳng định “ việc nuôi con nuôi sẽ được áp dụng pháp luật của nước kí kết mà người nhận nuôi là công dân”.
Phương pháp xung đột được áp dụng tương đối phổ biến để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Phương pháp này được áp dụng thông qua quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, mà nó chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước nào đó để điều chỉnh quan hệ này.
1.2.2.2 Phương pháp thực chất.
Phương pháp thực chất là phương pháp điều chỉnh dựa vào việc nhất thể hoá các quy phạm luật thực chất, cách thức giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong pháp luật của từng nước, định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ này dưới dạng định ra các quy phạm thực chất thống nhất [3].
Quy phạm thực chất là quy phạm trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế. Quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế (gọi là các quy phạm thực chất thống nhất). Việc xây dựng các quy phạm thực chất trong các điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết. Nó làm hài hoà sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia và có tính chất đơn giản hoá trong việc điều chỉnh các quan hệ này. Khi các quốc gia kí kết với nhau điều ước quốc tế trong đó có quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết sẽ dựa vào đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay quy phạm đó.Việc áp dụng các quy phạm thực chất sẽ loại trừ vấn đề phải chọn luật và cả vấn đề áp dụng luật nước ngoài.
Quy phạm thực chất còn được xây dựng trong pháp luật quốc gia. Loại quy phạm này gọi là quy phạm thực chất thông thường. Tuy nhiên, về vấn đề này, trong khoa học pháp lí các nước chưa có quan điểm thống nhất. Song, cùng với các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất thống nhất, các quy phạm thực chất thông thường là quy phạm được áp dụng để điều chỉnh các qu