Ch ún g ta đều biết rằn g trong phươn g trình hồi quy của đòn bẩy tài chính, lợi nh uận có mối
quan hệ nghịch biến với đòn bẩy tài chính. Các tài liệu cứu (chẳn g hạn như của Myer s năm
1993 hay Fama và French năm 2002) xem điều này là một minh chứng quan trọng để phản
bác lý thuyết đánh đổi thông thường. Trong n ghiên cứu này, ch ún g ta sẽ chỉ ra rằng: 1. Các
tài liệu trước đây đã giải thích sai mối quan hệ này do chún g sử dụng phổ biến công cụ theo
kinh nghiệm nhưng không đún g đó là côn g cụ tỷ lệ đòn bẩy tài chính. 2. Nhiều công ty sinh
lợi trải qua quá trình tăng trưởng cả trong giá trị sổ sách và giá trị thị trường của cổ phần. 3.
Theo kinh nghiệm, mối quan hệ này diễn ra như trong lý th uyết đánh đổi. Các công ty sinh
lợi cao thường phát hành nợ và mua lại cổ phần, trong khi các côn g ty lợi nhuận thấp thì lại
thường giảm nợ và phát hành cổ phần. 4. Các v ấn đề v ề quy mô côn g ty. Các công ty lớn
thường chủ độn g sử dụng nợ trong khi các công ty nhỏ lại chủ độn g sử dụn g vốn cổ phần. 5.
Trong mô hình đánh đổi, các quyết định tài chính phụ thuộc vào các điều kiện thị trường (‘ sự
điều chỉnh của thị trường’). T heo kinh n ghiệm, điều kiện thị trường x ấu sẽ làm giảm sự sử
dụn g các n guồn tài chính bên n go ài. Tác độn g n ày là đặc biệt lớn đối với các công ty nhỏ và
lợi nhuận thấp
29 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phần bài dịch Chuyên đề lợi nhuận và cấu trúc tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
PHẦN BÀI DỊCH
Chuyên đề
LỢI NHUẬN VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH
SVTH: Nhóm 4
GVHD: Thầy Trần Ngọc Thơ
Lớp: Tài chính doanh nghiệ p-Đêm 4
Khóa: 19
TP.Hồ Chí Minh - năm 2010
LỢ I NHUẬN VÀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH
Murray Z.Frank+ Vidhan K. Goyal ++
Tháng 7, năm 2009.
TÓM TẮT
Chúng ta đều biết rằn g trong phương trình hồi quy của đòn bẩy tài chính, lợi nhuận có mối
quan hệ nghịch biến với đòn bẩy tài chính. Các tài liệu cứu (chẳng hạn như của Myer s năm
1993 hay Fama và French năm 2002) xem điều này là một minh chứng quan trọng để phản
bác lý thuyết đánh đổi thông thường. Trong nghiên cứu này, chúng ta sẽ chỉ ra rằng: 1. Các
tài liệu trước đây đã giải thích sai mối quan hệ này do chúng sử dụng phổ biến công cụ theo
kinh nghiệm nhưng không đúng đó là côn g cụ tỷ lệ đòn bẩy tài chính. 2. Nhiều công ty sinh
lợi trải qua quá trình tăng trưởng cả trong giá trị sổ sách và giá trị thị trường của cổ phần. 3.
Theo kinh nghiệm, mối quan hệ này diễn ra như trong lý thuyết đánh đổi. Các công ty sinh
lợi cao thường phát hành nợ và mua lại cổ phần, trong khi các công ty lợi nhuận thấp thì lại
thường giảm nợ và phát hành cổ phần. 4. Các vấn đề về quy mô công ty. Các công ty lớn
thường chủ động sử dụng nợ trong khi các công ty nhỏ lại chủ động sử dụng vốn cổ phần. 5.
Trong mô hình đánh đổi, các quyết định tài chính phụ thuộc vào các điều kiện thị trường (‘ sự
điều chỉnh của thị trường’). T heo kinh n ghiệm, điều kiện thị trường xấu sẽ làm giảm sự sử
dụng các nguồn tài chính bên n goài. Tác động này là đặc biệt lớn đối với các công ty nhỏ và
lợi nhuận thấp.
Sự xếp hạng JEL: G32.
Những từ khó a: Cấu trúc vốn, lý thuyết đánh đổi, lợi nhuận, lý thuyết người đại diện, tỷ lệ
đòn bẩy tài chính.
I. GIỚ I THIỆU
Trong lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn tĩnh, công ty đạt lợi nhuận cao sẽ có tỷ lệ nợ cao. Tuy
nhiên, thực nghiệm cho thấy công ty có lợi nhuận cao có khuynh hướng có tỷ lệ nợ thấp hơn.
Điều này được cho là một nhược điểm nghiêm trọng của lý thuyế đánh đổi cấu trúc vốn tĩnh. Lý
thuyết tĩnh về đánh đổi cấu trúc vốn với nhược điểm đi kèm là một lý thuyết khá phức tạp, như
các lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn động khác (lý thuyết trật tự phân hạng và lý thuyết hành vi),
đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Điều này cho thấy lý thuyết này không đúng.
Để hiểu được vì sao cách giải thích thông thường là không chính xác? Biến ngoại sinh x (lợi
nhuận) ảnh hưởng gì đến cấu trúc vốn? Trong lý thuyết tĩnh về đánh đổi cấu trúc vốn, doanh
nghiệp chọn cả hai: nợ (D) và vốn cổ phần (E), ta có: D = D(x) và E = E(x). Theo lý thuyết, tác
động của x đến D là đạo hàm D’(x)>0, tác động của x đến E là đạo hàm E’(x)<0.
Tài liệu đã kiểm chứng các dự báo theo phương pháp so sánh tĩnh như thế nào? Phương
pháp thông thường là thiết lập tỷ số nợ L =
( )
( ) ( )
D x
L
D x E x
. Tiếp theo, ước lượng các hệ số của
mô hình hồi quy Lit = a + βxit + εit. Để kiểm định dự báo D’(x)>0, chúng ta tiến hành kiểm định
giả thuyết xác định xem β > 0 hay không. Với x là lợi nhuận, lý thuyết tĩnh về đánh đổi cấu trúc
vốn cho rằng D’(x) > 0. Vì vậy, thông thường β < 0 thì ta bác bỏ giả thuyết.
Cách giải thích thông thường sai ở điểm nào? Khi chạy mô hình hồi quy t uyến tính thì yếu tố
nào ảnh hưởng đến x trong
( )
( ) ( )
D x
D x E x
? Đó không phải là D’(x). Lấy đạo hàm của tỷ số nợ đối
với x:
2
'( ) ( )( '( ) '( ))
(1)
( ) ( ) ( ( ) ( ))
D x D x D x E x
D x E x D x E x
Phương trình này không nhất thiết phải cùng dấu với D’(x). Phương trình cùng dấu hay
không phụ thuộc vào dấu và độ lớn của
2
( )( '( ) '( ))
( ( ) ( ))
D x D x E x
D x E x
.
Kinh nghiệm cho thấy giá trị vế đầu tiên của phương trình thường lớn, nhưng giá của vế sau
cũng không phải là nhỏ. Điều này xảy ra khi nợ (D(x)) lớn hơn so với thay đổi trong nợ (D’(x)).
Để hiểu được vấn đề này, ta xem xét dữ liệu trong bảng IV. Trong cột trung bình của tất cả
doanh nghiệp (triệu USD) ta có D = 947.5, E= 1491, D’ = 26.9, E’ = 74.2. Thay những giá trị
này vào (1) ta thấy
'
0.011 0
D
D E
,
và
2
' ( ' ')
0.005 0
( )
D D D E
D E D E
. Dấu hiệu đảo dấu
xảy ra tại giá trịtrung bình của các doanh nghiệp.
Để hiểu được điều này vì sao và xảy ra như thế nào, cần nghiên cứu sâu vào dữ liệu. Theo
khái niệm, một số yếu tố tương tác nhau trong tỷ số nợ.
Có biến tác động đến D, có biến tác động đến E. Trong tỷ số nợ, không thể nhận ra các biến
này. Thông thường, các biến tác động đến D được dùng để giải thích cho tỷ số này. Trong dữ liệu,
có nhiều biến tác động đến E qua các năm. Điều này đúng cả đối với giá trị sổ sách lẫn giá trị thị
trường dựa theo định nghĩa về E.
Tỷ lệ đòn bẩy là tỷ lệ trung bình của tất cả doanh nghiệp. Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn
tĩnh cho thấy các dấu hiệu về quyết định tài trợ nợ và vốn cổ phần biên. Lý thuyết tĩnh về đánh
đổi cấu trúc vốn không chỉ ra độ lớn của nợ trung bình từng hoặc tổng cộng. Tổng giá trị của nợ
và vốn cổ phần chỉ một phần là kết quả của các quyết định tài trợ. Giá trị sổ sách của vốn cổ
phần phụ thuộc vào lợi nhuận tích lũy từ hoạt động kinh doanh. Giá trị thị trường của vốn cổ
phần phụ thuộc vào tình hình thị trường của lợi nhuận trong tương lai.
Các doanh nghiệp lớn và nhỏ đối mặt với các cấu trúc chi phí tài chính có phần khác nhau.
Những sự khác nhau này bị ẩn trong tỷ lệ đòn bẩy. Các doanh nghiệp đại chúng nhỏ có khuynh
hướng sử dụng thị trường vốn. Các doanh nghiệp đại chúng lớn có khuynh hướng sử dụng thị
trường nợ. Việc gộp chung hai loại doanh nghiệp này có thể dẫn đến kết luận sai lầm.
Từ thực tế, chúng ta có thể dễ nhận thấy những phương diện của lý thuyết đánh đổi cấu cấu
trúc vốn tĩnh:
1. Khi doanh nghiệp đạt lợi nhuận vượt trội, lợi nhuận này được ghi nhận vào giá trị sổ sách
của vốn cổ phần trừ khi các doanh nghiệp thực hiện các hành động khác để giảm gia trị doanh
nghiệp lại. Tương tự, khi doanh nghiệp đạt lợi nhuận vượt trội thì giá trị thị trường của vốn cổ
phần sẽ gia tăng. Vì vậy, doanh nghiệp đạt lợi nhuận càng cao, giá trị sổ sách và giá trị thị trường
của vốn cổ phần càng tăng.
2. Trong số các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nào có lợi nhuận cao nhất tăng vay nợ
nhiều nhất. Doanh nghiệp có lợi nhuận càng cao, cả giá trị sổ sách và giá trị thị trường của vốn
cổ phần càng cao. Doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất có khuynh hướng mua lại vốn cổ phần
trong khi doanh nghiệp có lợi nhuận thấp nhất có khuynh hướng phát hành thêm vốn cổ phần.
3. Trong số các doanh nghiệp nhỏ, lợi nhuận có tác động rất nhỏ đến nợ. Doanh nghệp có
lợi nhuận càng cao, giá trị sổ sách và giá trị thị trường của vốn cổ phần càng tăng. Doanh nghiệp
có lợi nhuận thấp, giá trị vốn cổ phần giảm. Trong số doanh nghiệp nhỏ có khuynh hướng phát
hành vốn cổ phần thì doanh có lợi nhuận thấp hơn có khuynh hướng phát hành vốn cổ phần
nhiều nhất.
4. Bất cứ mô hình lạc quan nào về cấu trúc vốn nội bộ tối ưu đều cho thấy rằng việc sử dụng
nợ và vốn cổ phần sẽ thay đổi theo sự thay đổi của tình hình thị trường. Thực tế cho thấy có sự
khác biệt về thời điểm đối với doanh nghiệp sử dụng tài trợ vốn bên ngoài. Thời điểm thuận lợi,
doanh nghiệp vay nợ và phát hành vốn cổ phần nhiều hơn so với thời điểm không thuận lợi. Ảnh
hưởng xấu của lợi nhuận lên việc phát hành lớn hơn vào những thời điểm tốt hơn là ở những thời
điểm xấu.
Tóm lại, doanh nghiệp có lợi nhuận cao vay nợ nhiều hơn, mua lại vốn cổ phần, giá trị sổ
sách và giá trị thị trường của vốn cổ phần tăng lên. Doanh nghiệp có lợi nhuận thấp hơn có
khuynh hướng ít vay nợ và phát hành vốn cổ phần. Giữa các doanh nghiệp có lợi nhuận thấp thì
có sự khác biệt giữa giá trị sổ sách và giá trị thị trường của vốn cổ phần.
Có một lượng lớn tài liệu quan trọng về chủ đề này, chúng ta không thể xem xét hết tất cả.
Theo tài liệu gần đây của Frank và Goyal (2008), mối quan hệ nghịch giữa lợi nhuận và tỷ số nợ
đã dẫn đến các kết quả nghiên cứu khác nhau.
Có ý kiến trong tài liệu đề ra rằng chúng ta không nên xem xét các mô hình tĩnh. Các dự báo
về lợi nhuận của lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn trong mô hình động thì phức tạp hơn trong mô
hình tĩnh (xem Strebulaev, 2007). Trong mô hình đánh đổi cấu trúc vốn động, tỷ số nợ có thể
không ảnh hưởng đến lợi nhuận do các yếu tố khác nhau.
Theo thực nghiệm, kết luận gây ra tranh cãi rằng nợ tác động tiêu cực đến lợi nhuận là do
doanh nghiệp tích lũy lợi nhuận một cách bị động (xem Kayhan và Titman, 2007). Điều này ngụ
ý rằng tại điểm cân bằng, nợ có thể tác động tích cực đến lợi nhuận. Mackie-Mason (1990) cho
rằng doanh nghiệp lỗ thuế thích phát hành vốn cổ phần hơn. Hovakimian et al. (2001) và Gomes
and Phillíp (2007) cho rằng doanh nghiệp có lợi nhuận cao quả thực là thích phát hành nợ hơn.
Điều này phù hợp với những gì chúng ta đã nghiên cứu. Trái lại, báo cáo của Jung et al. (1996)
cho rằng không có bất cứ liên hệ nào giữa việc phát hành vốn cổ phần và lợi nhuận.
Welch (2004, 2007) cho thấy một điểm quan trọng, đó là sự khác biệt giữa những thay đổi về
nợ, giá trị vốn cổ phần và tỷ số nợ. Welch (2007) nhấn mạnh rằng những khoản nợ phi tài chính và
những khoản nợ tài chính là khác nhau. Trong bài nghiên cứu này, chúng ta chấp nhận điều trên.
Bài nghiên cứu được sắp xếp theo trình tự sau. Phần II: mô tả cấu trúc của dữ liệu, các biến
số và một số thống kê tóm tắt. Phần III: kết quả từ các những ảnh hưởng của tỷ số nợ. Phần IV:
những kết quả của phân tích hồi quy tuyến tính từ phát hành nợ và vốn cổ phần. Phần V: kiểm
chứng lại việc phát hành nợ và vốn cổ phần với tỷ lệ phát hành và tổng vốn đã cho. Phần VI:
quyết định phát hành nợ và vốn cổ phần của doanh nghiệp trong thời điểm thuận lợi và khó khăn.
Phần VII: kết luận.
II. DỮ LIỆU
Theo mô tả ở phụ lục A, số liệu được xây dựng từ hệ thống sữ liệu của Compustat và CPSB.
Bảng I cung cấp số liệu vắn tắt về các biến số tài chính. Không có gì đáng ngạc nhiên về những
con số này. Nợ trung bình (tính bằng USD) khoàng 447 triệu USD trong khi số trung vị là 14
triệu USD. Có đáng kể các công ty có chỉ số nợ bằng 0 (1/10 các công ty có dư nợ bằng 0). Vốn
chủ sở hữu lớn hơn một ít so với chỉ số nợ. Vốn toàn thị trường lớn gấp hai lần so với chỉ số nợ.
Nếu không có chi phí cố định cho việc phát hành và mua lại cổ phiếu quỹ, chúng ta dự đoán sẽ
thấy có rất nhiều giao dịch nhỏ và rất ít những giao dịch lớn (Leary and Roberts, 2005). Ngược
lại, nếu tồn tại những chi phí cố định đáng kể của việc phát hành và m ua lại cổ phiếu quỹ thì việc
phát hành cổ phiếu lẻ tẻ là không cần thiết. Bảng I chỉ ra rằng mặc dù hầu hết những công ty phát
hành ít chứng chỉ nợ và cổ phiếu trong năm, những con số trung bình rất lớn. Điều này cho ta
thấy khi các công ty thực sự phát hành nợ và cổ phiếu, chúng được thực hiện với số lượng lớn.
Số nợ trung bình phát hành là 118 triệu USD (số trung vị là 0.8 triệuUSD). Tính trên tài sản thì
số nợ phát hành trung bình là 10%/ tổng tài sản (số trung vị là 2%). Khoảng 37% các công ty
không phát hành nợ, 8% phát hành từ 0->1% giá trị tài sản, 16% phát hành từ 1->5% giá trị tài
sản và 39% còn lại phát hành trên 5% giá trị tài sản.
Vốn chủ sở hữu phát hành trung bình là 17 triệu USD ( số trung vị là 0.1 triệu USD). Nếu xét về
tài sản thì số trung bình và số trung vị của vốn chủ sở hữu phát hành tương ứng là 8.5% và 0.1%.
Khoảng 40% các công ty không phát hành vốn chủ sở hữu, 29% phát hành từ 0->1%, 12% phát
hành từ 1->5% và 19% các công ty phát hành trên 5%.
Việc thanh toán các khoản nợ trung bình thì lớn hơn việc mua lại cổ phiếu. Điều này có lẽ được
phản ánh rõ trong các hợp đồng thanh lý và các khoản nợ đáo hạn. Những công ty trung bình
không mua lại cổ phiếu. Chỉ số đòn bẩy là 0.38 (mức trung bình là 0.28). Chỉ số đòn bẩy trung
bình của thị trường là 0.21 (trung bình là 0.34).
III. ƯỚC LƯỢNG TỶ SỐ ĐÒN BẨY
Các nghiên cứu trước đây tập trung vào ước lượng tỷ lệ đòn bẩy sử dụng. Do đó, chúng tôi bắt
đầu với một ước lượng tương tự để kiệm tra xem kết quả của chúng tôi có phù hợp với những
nghiên cứu trước đó không. Bảng II trình bày kết quả. Một số học giả ủng hộ tỷ lệ đòn bẩy sổ
sách trong khi số khác ủng hộ tỷ lệ đòn bẩy thị trường. Chúng tôi trình bày kết quả cho cả hai.
Đòn bẩy lý thuyết được định nghĩa là nợ trên tổng nợ và giá trị sổ sách của vốn cổ phần. Đòn bẩy
thị trường được định nghĩa là nợ trên tổng nợ và giá trị thị trường của vốn cổ phần.
Hãy xem xét cột (1) và (4) trong Bảng II. Như đã được tìm thấy bởi nhiều nghiên cứu trước đây,
mối tương quan với lợi nhuận là nghịch chiều và có ý nghĩa thống kê. Tác động mạnh mẽ hơn
trong hồi quy dựa vào thị trường (cột (4)) so với hồi quy dựa vào lý thuyết (cột (1)). Cột (2), (3),
(5) và (6) cho thấy lợi nhuận tác động mạnh mẽ lên nợ trong quá khứ và lên việc trả nợ và mua
lại cổ phần. Tác động mạnh mẽ này rất quan trọng khi chúng ta chạy hồi quy từng cặp sau này.
Các mối tương quan với các yếu tố khác phù hợp với những gì báo cáo bởi các nghiên cứu trước
đó. Một tỷ lệ thị trường trên sổ sách cao hơn thì đòn bẩy thấp hơn. Những công ty lớn có đặc
trưng sử dụng đòn bẩy cao hơn. Mối tương quan này là hợp lý khi chúng tôi không bao gồm nợ
trong quá khứ hay trả nợ hoặc mua lại cổ phần.
Kết luận từ Bảng II thì rõ ràng. Kết quả hồi quy phù hợp với kết quả báo cáo của các nghiên cứu
trước đó.
Trong Bảng II chúng tôi chạy thường xuyên tận dụng phần hồi quy.. Vì chúng tôi sử dụng dữ
liệu thông thường, nên không có gì ngạc nhiên khi có kết quả bình thường. Quan sát quan trọng
là lợi nhuận có dấu hiệu nghịch biến trong cả hai trường hợp: hồi quy đòn bẩy trên sổ sách và hồi
quy đòn bẩy trên thị trường.
A. Tần số của hoạt động tài trợ
Bảng III lập bảng tỷ lệ phát hành hoặc mua lại nợ và vốn cổ phần được phân loại theo thứ tự
giảm quy mô công ty và mức độ lợi nhuận. Trong Bảng III, chúng ta sử dụng phương pháp cắt
giảm 5% thông thường để loại bỏ các dao động nhỏ. Do đó, các công ty phát hành nợ là những
công ty sử dụng nợ (cả nợ ngắn và dài hạn) vượt quá 5% giá trị tài sản của họ. Các kết quả khác
cũng sử dụng phương pháp cắt giảm 5%.
Đầu tiên, chúng tôi phân loại theo quy mô công ty (hình A, Bảng III). Những công ty lớn thì dễ
dàng phát hành và thu hồi nợ. Các tác động này triệt tiêu lẫn nhau nên các công ty lớn không
phát hành nợ ròng lớn hơn hay nhỏ hơn nhiều so với những công ty nhỏ. Quy mô công ty tác
động đến phát hành vốn cổ phần lại khá khác biệt. Các công ty lớn ít thiên về phát hành cổ phần,
việc phát hành cổ phần này dường như bằng với việc mua lại cổ phần. Họ có khả năng mua lại
vốn cổ phần. Kết quả là các công ty nhỏ dường như là phát hành vốn cổ phần nhiều hơn các công
ty lớn.
Thứ hai, chúng tôi phân loại theo lợi nhuận (hình B, Bảng III). Kết quả cho thấy, khả năng phát
hành nợ độc lập với khả năng sinh lợi của công ty. Tương tự, chỉ có tương quan yếu giữa khả
năng sinh lợi và khả năng công ty thu hồi nợ. Không giống khả năng phát hành nợ, khả năng
phát hành vốn cổ phần có tương quan mạnh với khả năng sinh lợi. Những công ty có lợi nhuận
thấp thường phát hành cổ phiếu hơn là những công ty có khả năng sinh lợi cao. Các công ty có
lợi nhuận cao có nhiều khả năng mua lại cổ phần. Theo đó các công ty có khả năng sinh lợi thấp
có khả năng phát hành vốn cổ phần ròng hơn là những công ty có khả năng sinh lợi cao. Làm thế
nào để biết quy mô và khả năng sinh lợi tương tác? Để kiểm tra câu hỏi này, đầu tiên chúng tôi
sắp xếp những công ty thong thường theo quy mô và sau đó, trong mỗi nhóm kích thước, chúng
tôi sắp xếp dực trên khả năng sinh lợi. Việc phân loại được thực hiện dực trên đặc tính của các
công ty vào năm t-1.
Phần dưới cùng của Bảng III trình bày kết quả cho quy mô nhỏ nhất và lớn nhất theo nhóm.
Trong số các công ty nhỏ, có sự phát hành nợ nhiều hơn đối với các công ty có khả năng sinh lợi
cao hơn. Tuy nhiên việc phát hành nợ giữa những công ty nhỏ giảm trong số công ty có khả năng
sinh lợi. Điểm cơ bản ở đây là có rất ít hoặc không có tương quan giữa khả năng sinh lợi và khả
năng phát hành nợ cho những công ty nhỏ hơn. Tuy nhiên những công ty lớn hơn thì khác. Với
những công ty lớn hơn. Có một mô hình khá rõ ràng về gia tăng phát hành nợ ròng với sự tăng
khả năng sinh lợi.
Những tác động của khả năng sinh lợi đối việc phát hành và mua lại cổ phần thì phù hợp hơn
theo nhóm quy mô. Khi tăng khả năng sinh lợi, các công ty thường ít phát hành cổ phần và tăng
mua lại chúng. Việc phát hành cổ phần tập trung vào nhóm có lợi nhuận thấp.
Bốn cột cuối cùng xem xét các công ty phát hành cả nợ và cổ phần, những công ty phát hành nợ
và mua lại cổ phần, những công ty phát hành cổ phần và thu hồi nợ, và những công ty không
thực hiện phát hành. Một phần nhỏ các công ty phát hành cả nợ và cổ phần trong cùng một năm.
Ngược lại, phần lớn các công ty (khoảng từ 30 đến 40%) không phát hành cả hai.
Quan trọng hơn, cột (8) cho thấy khả năng phát hành nợ và đồng thời mua lại cổ phần gia tăng
theo khả năng sinh lợi. Cột (9) cho thấy rằng, ngược lại, các khả năng phát hành cổ phần và thu
hồi nợ giảm theo khả năng sinh lợi. Tác động của việc phân loại theo quy mô và theo khả năng
sinh lợi của công ty phản ánh kết quả cho toàn bộ các công ty. Một lần nữa chúng ta thấy rằng
các công ty có lợi nhuận thấp, ít phát hành nợ và mua lại cổ phần, họ có xu hướng phát hành cổ
phần và thu hồi nợ. Những công ty có khả năng sinh lợi cao thì ngược lại.
B. Tầm quan trọng của hoạt động tài trợ.
Trong phần trước, chúng ta xem khả năng xảy ra các hoạt động phát hành cổ phần và nợ ở mức
độ không tầm thường. Các câu hỏi tiếp theo là ảnh hưởng của giá trị đồng dollar lớn tới mức nào.
Trong Bảng IV, chúng tôi phân loại các công ty dựa vào lợi nhuận và sau đó lập bảng theo các
mức và sự thay đổi trong cả nợ và vốn cổ phần. Đầu tiên chúng tôi làm điều này cho tất cả các
công ty và sau đó cho các công ty nhỏ so với các công ty lớn. Đối với tất cả các công ty, chúng ta
quan sát cột (1): nợ cao nhất ở giữa của phân phối. Thực tế này có được là do việc trộn lẫn các
công ty có quy mô khác nhau. Đối với các công ty nhỏ, nợ độc lập với lợi nhuận, trong khi đối
với các công ty lớn, các công ty có lợi nhuận thấp có xu hướng có một mức độ nợ cao hơn.
Chúng ta có thể mong đợi các công ty sinh lợi cao hơn sẽ có giá trị vốn cổ phần cao hơn. Mô
hình này nằm trong khoảng giữa cột (3) và (5), mặc dù còn có một số ít biến động. Các cột (1),
(3), (5) cho thấy rằng các công ty trong mẫu của chúng tôi là khá điển hình về những gì đã được
tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây, đó là lý do chúng tôi đang nghiên cứu những công ty từ
các dữ liệu thông dụng nhất đặt ra cho các nghiên cứu đó.
Trong cột (2) của Bảng IV, chúng ta xem xét mối quan hệ giữa sự thay đổi nợ và khả năng sinh
lợi của công ty. Đối với những công ty nhỏ, các thay đổi trong nợ phần lớn không liên quan đến
lợi nhuận. Đối với các công ty lớn, có một mối tương quan mạnh. Những công ty có lợi nhuận
cao có một thay đổi lớn chuyển sang nợ. Những công ty lớn có lợi nhuận thấp có một chút thay
đổi tiêu cực trong nợ.
Những thay đổi trong cả giá trị sổ sách và giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu theo những nhóm
lợi nhuận được minh họa trong các cột (4) và (6). Đối với các công ty lớn, lợi nhuận cao có một
thay đổi tích cực lớn trong vốn chủ sở hữu. Đối với các công ty nhỏ tác động này yếu hơn. Tuy
nhiên tác động này của các công ty lớn đủ mạnh để nó cũng rõ ràng trong trường hợp của tất cả
các công ty.
Cột (7) Bảng IV có tầm quan trọng đặc biệt đối với lý thuyết. Nó cho thấy rằng đối với các công
ty nhỏ có lợi nhuận thấp có xu hướng phát hành nhiều cổ phần hơn những công ty nhỏ có lợi
nhuận cao. Trong các công ty lớn có lợi nhuận thấp có xu hướng phát hành cổ phần, trong khi
những công ty lớn