Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là bộ phận không thể thiếu trong họat động sản xuất kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tăng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sở nói riêng, nó là điều kiện chủ đạo để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, chưa đảm bảo, nhu cầu vốn sản xuất của các ngành rất lớn thì đầu tư là điều kiện bắt buộc phải có trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt đầu tư càng cần thiết hơn trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Đầu tư bao gồm rất nhiều bộ phận: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nội địa bao gồm: đầu tư từ NSNN, đầu tư từ vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,… Đầu tư nước ngoài như là ODA,FDI,…
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào đầu tư, và qua số liệu thống kê, Việt Nam đang dựa ngày càng nhiều vào đầu tư nước ngoài để chi trả cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là khi FDI sụt giảm. Vì thế cần nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, bên cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng.
Đầu tư nhà nước có vai trò quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là các lĩnh vực cần cho quốc tế, dân sinh mà cơ chế thị trường ít phát huy tác dụng hoặc tư nhân không đủ sức, ít quan tâm vì rủi ro và lợi nhuận thấp. Nhưng nếu nguồn tài lực không được quản lý, sử dụng hiệu quả thì không đạt được mục đích mong muốn, còn có thể là nguyên nhân làm đất nước lâm cảnh nợ nần. Trước tầm quan trọng của đầu tư từ NSNN, em xin được nghiên cứu và phân tích những tác động của vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng.
43 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3969 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế và giải pháp nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là bộ phận không thể thiếu trong họat động sản xuất kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tăng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sở nói riêng, nó là điều kiện chủ đạo để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, chưa đảm bảo, nhu cầu vốn sản xuất của các ngành rất lớn thì đầu tư là điều kiện bắt buộc phải có trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt đầu tư càng cần thiết hơn trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Đầu tư bao gồm rất nhiều bộ phận: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nội địa bao gồm: đầu tư từ NSNN, đầu tư từ vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,… Đầu tư nước ngoài như là ODA,FDI,…
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào đầu tư, và qua số liệu thống kê, Việt Nam đang dựa ngày càng nhiều vào đầu tư nước ngoài để chi trả cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là khi FDI sụt giảm. Vì thế cần nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, bên cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng.
Đầu tư nhà nước có vai trò quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là các lĩnh vực cần cho quốc tế, dân sinh mà cơ chế thị trường ít phát huy tác dụng hoặc tư nhân không đủ sức, ít quan tâm vì rủi ro và lợi nhuận thấp. Nhưng nếu nguồn tài lực không được quản lý, sử dụng hiệu quả thì không đạt được mục đích mong muốn, còn có thể là nguyên nhân làm đất nước lâm cảnh nợ nần. Trước tầm quan trọng của đầu tư từ NSNN, em xin được nghiên cứu và phân tích những tác động của vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng.
CHƯƠNG I- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN
I- CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1- Vốn sản xuất:
Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và vốn lưu động.
Ở giác độ vĩ mô, vốn sản xuất luôn được biểu hiện dưới dạng hiện vật, phản ánh năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Khi đánh giá tài sản được tích lũy lại và chỉ tính đối với các loại tài sản có liên quan trực tiếp đến sản xúât và dịch vụ.
2- Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định lại chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sữa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Còn vốn sữa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản, do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai trò kinh tế của vốn sữa chữa lớn tài sản cố định cũng giống như vai trò kinh tế của vốn đâù tư cơ bản là nhằm đảm bảo thay thế tài sản bị hư hỏng.
II- NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN ĐẦU TƯ:
Vốn đầu tư được hình thành từ tiết kiệm của dân cư, chính phủ, và tiết kiệm của các công ty. Ngoài ra, vốn đầu tư cũng được huy động từ các khoản viện trợ, các khoản đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Như vậy có thể chia nguồn hình thành vốn đầu tư thành nguồn vốn nội địa và nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Tiết kiệm của chính phủ (Sg):
Tiết kiệm của chính phủ, theo tính chất sở hữu bao gồm tiết kiệm từ NSNN (Sg.h) và tiết kiệm của các công ty Nhà nước (Sg.c). Theo tổ chức kinh tế thì tiết kiệm của các công ty Nhà nước và tiết kiệm của các công ty tư nhân được kết hợp chung là tiết kiệm của các công ty. Do vậy trong phạm vi xem xét ở đây, tiết kiệm cuả chính phủ được giới hạn trong phạm vi tiết kiệm của Ngân sách Nhà nước. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng cách lấy tổng số thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu.
Tức là: Sg = = ∑thu Ngân sách - ∑ chi Ngân sách
Nhưng đối với chính phủ, đặc biệt là chính phủ của các nước đang phát triển, chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ chi quan trọng, do vậy tình trạng phổ biến là bội chi Ngân sách, nhưng đầu tư vẫn được coi là một nội dung chi tiêu quan trọng. Các khoản chi của chính phủ qua NSNN bao gồm:
Chi mua hang hóa và dịch vụ
Chi các khoản trợ cấp
Chi trả lãi suất và các khoản vay
Thu Ngân sách chủ yếu là thuế và một phần các khoản lệ phí.
Tiết kiệm của các công ty (Sc):
Tiết kiệm của các công ty được xác định trên cơ sở doanh thu của công ty và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh thu của công ty là các khoản thu nhập của công ty do tiêu thụ hang hóa hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình sản xuất. Tổng doanh thu được kí hiệu là TR.
Tổng chi phí (TC) thường bao gồm các khoản: trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận của công ty trước thuế:
TR – TC = Pr trước thuế
Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức sẽ còn lại lợi nhuận sau thuế :
Pr trước thuế - Td.e = Pr sau thuế
Đối với các công ty cổ phần thì Pr sau thuế còn phải chia cho các cổ đông:
Pr sau thuế - Pr cổ đông = Prđể lại công ty (Pr không chia)
Lợi nhuận để lại công ty (hay còn gọi là lợi nhuận không chia) chính là tiết kiệm của công ty, nhưng vốn đầu tư của công ty còn sử dụng cả quỹ khấu hao nên:
Ic = Dp + Prkhông chia
Trong đó: Ic là đầu tư của công ty
Dp là khấu hao
Tiết kiệm của dân cư (Sh):
Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (ID) và các khoản thu khác.
Thu nhập có thể sử dụng được tính bằng công thức:
DI = NI – Td + Su
Trong đó : NI là thu nhập quốc dân sản xuất
Td là thuế thu nhập (bao gồm cả thuế thu nhập của công ty và thuế thu nhập của dân cư: Td = Td.e + Td.h)
Su là các khoản trợ cấp của chính phủ
Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được viện trợ, thừa kế, bán tài sản, trúng xổ số, thậm chí là các khoản đi vay…
Các khoản chi tiêu của hộ gia đình gồm có:
- Các khoản chi mua hang hóa và dịch vụ
- Chi trả lãi suất các khoản tiền vay
2- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
a- Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II cùng với kế hoạch Marshall để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. ODA được gọi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nứơc đang phát triển nhằm thúc đâỷ sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Ngày nay nguồn vốn ODA không chỉ từ các nước OECD mặc dù các nước này vẫn chiếm đại bộ phận (85%), ngoài ra còn từ Nga và các nước Đông Âu (10%) và các nước Ả rập có dầu mỏ (5%), ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Viện trợ đa phương thông qua các tổ chức quốc tế. Ví dụ như: Các tổ chức Liên hợp quốc (UNDP, UNICFF, UNESCO,…); IMF, WB, ADB, OPEC. Viện trợ đa phương thường chiếm 20% trong tổng nguồn vốn ODA, còn lại là viện trợ song phương. Nội dung viện trợ ODA bao gồm:
Viện trợ không hoàn lại thường chiếm 25% tổng vốn ODA
Hợp tác kĩ thuật
Cho vay ưu đãi
b- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nứơc ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp nguồn vốn mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật và tìm thị trường tiêu thụ ổn định. Mặt khác vốn FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do đó thu hút được nguồn vốn này sẽ giảm được gánh nợ nước ngoài đối với các nước đang phát triển.
III- VAI TRÒ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ:
Mô hình Harrod – Domar:
Mô hình được xuất phát từ tư tưởng của Keynes ở trên, nó được áp dụng khá phổ biến và rộng rãi ở các nước đang phát triển, hiện tại vẫn là một mô hình được các nhà kinh tế đương đại dùng để xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu về vốn và tăng trưởng.
Nếu gọi đầu ra trong một đơn vị thời gian là GDPt, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g thì:
g =
Nếu gọi s là tỷ lệ tích lũy GDP và mức tích lũy St thì:
Do tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (St = It), nên : s =
Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do đó It = Kt+n.
Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra ta có:
hay
Vì : ===
Vậy g =
Hệ số k được gọi là hệ số ICOR. Đó là hệ số gia tăng vốn/đầu ra, tức là vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của dân cư và các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này còn phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Mô hình cho phép các nhà hoạch định đưa ra các kế hoạch tăng trưởng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế.
Tóm lại mô hình chỉ ra sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm và đầu tư, đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế, là tiền đề của sự phát sinh lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
IV- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo định hướng của chính phủ. Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta nói riêng thì đầu tư từ NSNN có tác dụng kích thích các thành phần kinh tế phát triển có hiệu quả hơn và đồng đều hơn. Trong điều kiện hiện nay thì đầu tư của tư nhân và nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào các ngành nghề, khu vực có khả năng sinh lời cao, mức độ an toàn lớn, vốn nhỏ, dẫn đến mất cân đối trong các ngành kinh tế và vùng kinh tế. Để nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ thì chính phủ sẽ dùng vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách để đầu tư vào một số lĩnh vực mà có vốn đầu tư lớn, khả năng thu hồi vốn chậm như các công trình phúc lợi, mặt bằng cơ sở hạ tầng, chi cho đầu tư phát triển giáo dục…
Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới cơ sở hạ tầng:
Vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn đầu tư cơ bản và quan trọng nhất để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc, giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc…Các công trình này là những công trình công cộng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn nhưng thời gian thu hồi vốn dài, lợi nhuận thấp. Do đó, các nhà đầu tư thường không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện nay việc tham gia đầu tư từ các nguồn vốn ngoài NSNN là quá ít, để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu phát triển đất nước, Nhà nước phải sử dụng vốn đầu tư từ NSNN đầu tư cho phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Từ khó khăn về huy động vốn dẫn đến tiến độ thi công các công trình đầu tư phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng rất chậm chạp, trì trệ, một số công trình có tên trong danh mục đầu tư đã được phê duyệt cứ phải xếp hang mãi mới đến lượt, nhiều công trình không thể thực hiện được vì không đảm bảo vốn đầu tư. Ngoài ra, vấn đề sử dụng vốn cho phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng đang là vấn đề nhức nhối mà các ngành đang phải tìm cách giải quýêt. Đó là tình trạng thất thoát vốn do tệ tham ô, tham nhũng, do việc thực hiện không đúng tiến độ kỹ thuật. Mà thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì rất lớn, gây lãng phí vốn,…
Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới nông nghiệp nông thôn:
Để phát triển kinh tế với tốc độ cao và có hiệu qủa ở một số nước trên thế giới chủ yếu nhằm vào đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, họ coi đó là cách đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Sở dĩ họ có lựa chọn như vậy vì đất nước họ có nền công nghiệp rất phát triển và có thành tựu đạt được từ các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trước đó.
Thực tế Việt Nam, trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với cơ sở vật chất thấp kém. Khi đó chúng ta chỉ tập trung vào đầu tư các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ, cuối cùng chúng ta đã không thành công mà còn kéo theo sự trì trệ, chậm phát triển của các ngành kinh tế khác. Ở giai đoạn sau, khi chúng ta nhìn nhận lại kết quả đạt được thì thấy rằng sở dĩ chúng ta không thành công là do cơ cấu đầu tư cho các ngành là không hợp lí. Không chú trọng đầu tư vào những ngành có lợi thế để tận dụng được những lợi thế này, ví dụ như ngành nông nghiệp có lợi thế rất lớn về đất đai, điều kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác lâu đời thì lại không được quan tâm đầu tư đúng mức, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng thấp kém và chưa phát triển đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoảng cách về thu nhập giữa nông dân giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do thiếu những điều kiện và tiền đề cần thiết để phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quan trọng nhất là lực lượng sản xuất, một phần do việc đầu tư của Nhà nước chưa thỏa đáng. Vốn tích lũy của khu vực này rất thấp vì vậy việc tăng cường đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn từ NSNN và các nguồn khác trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên, điều đó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
CHƯƠNG II- PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM.
THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM:
Tình hình kinh tế Việt Nam:
Nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2008 với nhiều yếu tố không thuận lợi. Về bối cảnh kinh tế thế giới, kể từ cuối năm 2007, giá dầu thô và nhiều loại vật tư, lương thực trên thị trường thế giới tăng đột biến, kinh tế tăng trưởng châm lại trên phạm vi toàn cầu, tình hình lạm phát trên phạm vi toàn cầu có dấu hiệu tăng lên. Những diễn biến trên đã tác động không nhỏ đến kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Về bối cảnh trong nước, xu hướng gia tăng mạnh của giá cả, nhập siêu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng xấu đến sản xuât và đời sống nhân dân. Bên cạnh những hạn chế, bất cập và thách thức không nhỏ đó, thì đầu tư nước ngoài (FDI) lại là điểm sáng nhất. Tính riêng tháng 5/2008 đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt 7,5 tỉ USD, đưa tổng số 5 tháng lên 14,7 tỉ USD, cao gấp trên 2,6 lần cùng kỳ năm trước. Nếu kể cả 0,6 tỉ USD của các dự án tăng vốn thì tổng lượng vốn đang ký mới và bổ sung đạt trên 15,3 tỉ USD, cao gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước, không những lớn nhất so với cùng kỳ từ trước tới nay mà còn lớn hơn mức cả năm từ năm 2006 trở về trước, bằng trên hai phần ba lượng vốn của cả năm 2007. Điều đó chứng tỏ bất chấp những khó khăn của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là điểm thu hút FDI hấp dẫn.
Mức nhập siêu 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, chiếm 61,6% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô là 2,5 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch nhập siêu; nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước là 11,9 tỷ USD, chiếm 82,4%. Bên cạnh yếu tố về tăng số lượng hàng nhập khẩu, thì sự tăng giá của một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong thời gian gần đây cũng góp phần không nhỏ gây nên tình trạng nhập siêu.
Kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đạt 23,4 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm đã có 8 nhóm hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép, gỗ, thủy sản, gạo và cà phê.
Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của giá cả nguyên liệu trên thế giới tăng đã khiến chi phí sản xuất cũng như giá thành các dịch vụ tăng lên, nhưng hoạt động thương mại cũng diễn ra khá sôi động trên hầu khắp các địa bàn trong cả nước. Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội 5 tháng đầu năm đạt 370.000 tỷ đồng, tăng tới 29,5% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam và tình hình sử dụng:
a- Cơ cấu vốn:
* Về cơ cấu ngành, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 512 dự án, thông qua tổng vốn đăng ký 32,5 tỷ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% về vốn đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ có 400 dự án với tổng vốn đăng ký 25,5 tỷ USD, chiếm 42% về số dự án và 44% về vốn đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp.
* Xét về cơ cấu nhà đầu tư, Malaysia nổi lên dẫn đầu trong số 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam về vốn đăng ký trong 10 tháng với 40 dự án được cấp phép, tổng vốn đăng ký 14,8 tỷ USD, chiếm 25,5% về vốn tổng đầu tư đăng ký của cả nước. Đài Loan đứng vị trí thứ hai với 122 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD, chiếm 14,8% về vốn đăng ký. Nhật Bản đứng thứ ba với 90 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỷ USD, chiếm gần 13% của tổng vốn đăng ký.
" Tính đến tháng 9-2008, Hà Nội đã thu hút tổng cộng 1.400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 18 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư vào Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ từ lĩnh vực công nghiệp sản xuất và kinh doanh sang lĩnh vực dịch vụ, tài chính ngân hàng và đặc biệt là các dự án bất động sản lớn.
b- Tình hình sử dụng:
Tồn tại quá nhiều vấn đề trong sử dụng vốn, xảy ra tình trạng lãng phí kép, và “bệnh hình thức”
“Lãng phí kép” trong sử dụng vốn: với một nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiệu quả sử dụng vốn gây lãng phí, tiền tiêu không hợp lý. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ về việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.
Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, tiền ngân sách là gì khác ngoài tiền thuế của dân đóng góp. Đầu tư trong nước là một nguồn lực tốt, thậm chí, trong năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đảy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng lẽ ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn ,do chính nhà nước tạo ra.
Về vốn bên ngoài, chúng ta nhận được nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.
Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Bài học Phần Lan cần phải tránh
Chúng ta không thể chỉ dựa riêng vào ngân sách, vào ODA để làm hạ tầng. Phải tin mình và tin các nhà đầu tư để mạnh dạn mở cửa. Không thể quay lưng lại với cơ hội, nhất là khi chúng ta đã có hệ thống pháp lí quốc tế để soi chiếu, có kinh nghiệm hợp tác nhiều năm. Tâm lí e ngại đáng ra không được duy trì lâu như vậy. Giá của sự chờ đợi ấy không đáng.
Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công v