Phân tích đánh giá nguyên nhân làm xuất khẩu tăng chậm, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO và các giải pháp khắc phục để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu trong thời kỳ tới năm 2020

Nhận thức rõ vai trò của xuất nhập khẩu (XNK) trong quá trình phát triển nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để XNK phát triển nhanh chóng, ổn định và đúng hướng. Sự điều chỉnh về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT), tự do hoá thương mại và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo hiệu ứng mạnh đối với sự lưu chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu. Độ “mở” của nền kinh tế ngày càng rộng, nếu như năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (KNXNK) hàng hoá mới bằng 90% giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) thì đến năm 2007 chỉ số này đã là khoảng 160%. Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển nhanh hơn theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán với 221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5 Châu lục, trong đó xuất khẩu (XK) tới 219 thị trường, nhập khẩu (NK) từ 151 thị trường. Mặt hàng xuất khẩu được đa dạng hoá về chủng loại; tăng qui mô và chất lượng; và chuyển dịch cơ cấu tích cực theo hướng tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng dần, tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế giảm dần. Điểm nổi bật trong xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam những nă m qua là đã xuất khẩu đến thị trường đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có tiếng và chiếm thị phần khá lớn trê n thị trường thế giới.

pdf41 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích đánh giá nguyên nhân làm xuất khẩu tăng chậm, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO và các giải pháp khắc phục để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu trong thời kỳ tới năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU – VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020” BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ NGUYÊN NHÂN LÀM XUẤT KHẨU TĂNG CHẬM, NHẬP SIÊU TĂNG CAO SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ĐỂ TĂNG XUẤT KHẨU, GIẢM NHẬP SIÊU TRONG THỜI KỲ TỚI NĂM 2020 ThS. Nguyễn Thanh Bình Hà Nội, 9 - 2010 1 MỞ ĐẦU Nhận thức rõ vai trò của xuất nhập khẩu (XNK) trong quá trình phát triển nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để XNK phát triển nhanh chóng, ổn định và đúng hướng. Sự điều chỉnh về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT), tự do hoá thương mại và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo hiệu ứng mạnh đối với sự lưu chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu. Độ “mở” của nền kinh tế ngày càng rộng, nếu như năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (KNXNK) hàng hoá mới bằng 90% giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) thì đến năm 2007 chỉ số này đã là khoảng 160%. Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển nhanh hơn theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán với 221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5 Châu lục, trong đó xuất khẩu (XK) tới 219 thị trường, nhập khẩu (NK) từ 151 thị trường. Mặt hàng xuất khẩu được đa dạng hoá về chủng loại; tăng qui mô và chất lượng; và chuyển dịch cơ cấu tích cực theo hướng tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng dần, tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế giảm dần. Điểm nổi bật trong xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam những năm qua là đã xuất khẩu đến thị trường đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có tiếng và chiếm thị phần khá lớn trên thị trường thế giới. Trong thời kỳ chiến lược 2001 -2010, sau khi ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA) năm 2001, tháng 11 năm 2006 nước ta đã gia nhập WTO và tháng 10/2007 nước ta chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới. Đồng thời, Việt Nam đã tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu hơn trong khung khổ của 6 FTA khu vực (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJFTA, AANZFTA, AIFTA). Tỷ trọng thương mại hai chiều giữa Việt Nam với 15 đối tác đã ký FTA chiếm gần 60% tổng giá trị kim ngạch ngoại thương cùa Việt Nam, trong đó chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 70% kim ngạch nhập khẩu. Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, các rào cản 2 thương mại đã giảm đáng kể nên hàng Việt Nam đã mở rộng được thị phần sang các thị trường lớn, tăng kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 2007, nhờ hiệu ứng tích cực của việc gia nhập WTO, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được cải thiện, dòng chảy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh, sản lượng các ngành kinh tế theo định hướng xuất khẩu cũng tăng, góp phần quan trọng vào tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, ngay sau khi gia nhập WTO, nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam tăng cao, tăng trưởng xuất khẩu chậm lại tác động mạnh đến các cân đối kinh tế vĩ mô, làm gia tăng tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai ... Năm 2006, tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu chỉ ở mức 12,7%, năm 2007 tăng vọt lên 29,1%, năm 2008 giảm nhẹ còn 28,7%, năm 2008 vẫn ở mức 21,36% và năm 2010 còn khoảng 16,8%. Nhập siêu đồng hành với thâm hụt cán cân thu – chi dịch vụ tạo ra thâm hụt “kép” cán cân thương mại và là thành tố chính gây ra thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Sau khi gia nhập WTO, cán cân thanh toán vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt trầm trọng, từ 164 triệu USD năm 2006 lên xấp xỉ 7 tỷ USD năm 2007, vọt lên 12,1 tỷ USD năm 2008 (bằng 11,8% GDP) và năm 2009 thâm hụt khoảng 8 tỷ USD (bằng 7,8%GDP). Đây là mức rất cao so với ngưỡng an toàn chung của các nền kinh tế trên thế giới (thâm hụt vượt ngưỡng 5% GDP được coi là trạng thái mất an toàn cán cân thanh toán). Với lý do nêu trên, việc nghiên cứu để làm rõ nguyên nhân của hiện tượng sau khi Việt Nam gia nhập WTO, tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, nhập siêu tăng cao nhằm đề ra giải pháp khắc phục để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu trong thời kỳ chiến lược 2011 – 2020 là rất cần thiết, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược cân bằng được cán cân thương mại vào năm 2020. Báo cáo chuyên đề nghiên cứu khoa học này bước đầu giải đáp vấn đề quan trọng nêu trên. Kết cấu nội dung chuyên đề gồm 3 phần: I. Khái quát chung. II. Phân tích, đánh giá một số nguyên nhân chủ yếu làm xuất khẩu tăng chậm lại, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO. III. Một số giải pháp để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu thời kỳ tới năm 2020. 3 I.- KHÁI QUÁT CHUNG 1. Tình hình tăng trưởng xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam từ khi gia nhập WTO đến nay - Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình quân 17%/năm, thấp hơn 2,15 điểm phần trăm so với giai đoạn 2001-2005 (19,15%/năm). Kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình quân 17,17%/năm, thấp hơn 1,48 điểm phần trăm so với giai đoạn 2001-2005, nhưng vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của giai đoạn 2008-2010 0,17 điểm phần trăm. Thời kỳ 2001-2010, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 17,3%/năm nhưng kim ngạch nhập khẩu đã tăng bình quân 18,2%/năm, nhanh hơn 1,2 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (riêng giai đoạn 2006-2010 nhanh hơn 1,05 lần), nhập siêu tăng cao trong giai đoạn 2006-2010, đỉnh điểm là năm 2007 và 2008. - Nhập siêu từ khu vực thị trường ASEAN có xu hướng giảm xuống còn từ Trung Quốc tăng nhanh. Năm 2009 Trung Quốc chiếm 89,72% giá trị nhập siêu của Việt Nam. (Xem bảng 1) Bảng 1: Tăng trưởng xuất nhập khẩu và tình trạng nhập siêu của Việt Nam 2006-2010 Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009 Ứớc 2010 1.Xuất khẩu (FOB) Tăng trưởng Tr. USD % 39.826 22,74 48.561 21,33 62.685 29,1 57.096 - 8,91 71.000 24,3 2.Nhập khảu (CIF) Tăng trưởng Tr. USD % 44,891 22,1 62.682 39,8 80,714 28,6 69.949 -13,3 83.000 19,17 3.Nhập siêu Tỷ lệ NS/XK Tr. USD % -5.064 12,71 -14.204 29,24 -18.029 28,76 -12.853 22,51 -12.000 16,9 4.Nhập siêu từ ASEAN Tỷ lệ 4/3 Tr. USD % -5.913 116,74 -7.950 55,97 - 9.376 52,0 - 5.227 40,66 (8T) -3.458 20,46 4 5.Nhập siêu từ ASEAN + 3 Tỷ lệ 5/3 Tr. USD % -12.588 248,5 -22.938 163,5 25.478 141,0 -16.567 128,9 (8T) -13.340 111,16 6.Nhập siêu từ Trung Quốc Tỷ lệ 6/3 Tr. USD % -4.361 86,1 - 9.145 64,38 -11.117 61,66 -11.532 89,72 (8T) -8.000 47,33 Nguồn: Cục công nghệ Thông tin và thống kê hải quan 2. Khái quát bối cảnh và nguyên nhân làm xuất khẩu tăng chậm, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO (1) Về mặt chủ quan, việc xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001- 2010 chưa phù hợp với tính chu kỳ của nền kinh tế thế giới và trong nước, chưa phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. “Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001- 2010” được xây dựng trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang ở đáy của kỳ suy thoái để chuyển sang giai đoạn phục hồi và tăng trưởng. Kết quả 5 năm đầu thực hiện chiến lược, hầu hết các chỉ tiêu về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu đều không phù hợp (cao hơn) so với mục tiêu Chiến lược đã đề ra. Để phù hợp với bối cảnh mới khi Việt Nam gia nhập WTO, ký kết các FTA khu vực, kinh tế thế giới và Việt Nam đang ở kỳ tăng trưởng cao ..., ngày30/6/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 156/2006/QĐ- TTg phê duyệt Đề án : “Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010”. Trong đó, đã điều chỉnh một số chỉ tiêu cụ thể theo hướng nâng qui mô, tốc độ và chất lượng tăng trưởng cao hơn so với các chỉ tiêu đã xác định trong chiến lược, nhưng lại không phù hợp với trạng thái kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam sau khi đạt ngưỡng tăng trưởng cao trong các năm 2007 -2008 đã bước vào kỳ suy giảm mạnh trong các năm 2009 -2010. Vì thế, phần lớn các chỉ tiêu về qui mô và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu đã xác định trong Đề án đều cao hơn kết quả thực hiện. 5 (2) Hội nhập WTO và hội nhập các FTA chưa thu được lợi ích quốc gia như kỳ vọng, có những hiệu ứng bất lợi không mong muốn. Quá trình hội nhập các FTA chưa phù hợp với định hướng điều chỉnh chiến lược thị trường. Hệ thống luật pháp và năng lực quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực trực tiếp liên quan đến hội nhập WTO và các FTA còn bất cập. Kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng phát triển thương mại và dịch vụ logistics còn yếu kém. Chất lượng nguồn nhân lực tham gia hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập các FTA còn nhiều hạn chế, cả ở trong khâu đàm phán ký kết các điều ước quốc tế về thương mại và thực hiện các cam kết. Sự thiếu đồng bộ giữa chiến lược phát triển xuất khẩu và sự tham gia 6 FTA khu vực cũng là nguyên nhân chủ quan dẫn tới cơ cấu xuất, nhập khẩu không chuyển dịch theo mong muốn của ta trong chiến lược và đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010. (3) Những hạn chế, yếu kém trong phát triển xuất nhập khẩu 10 năm qua do những tác động bất lợi của bối cảnh kinh tế thế giới và tình hình kinh tế trong nước. Nổi cộm là sự biến động mạnh của thị trường nguyên, nhiên vật liệu thế giới các năm 2007 – 2008, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay làm nhu cầu nhập khẩu của thị trường thế giới sụt giảm, các điều kiện về tài chính trên thị trường toàn cầu trở nên khó khăn hơn. Kinh tế thế giới tăng trưởng cao đạt ngưỡng vào năm 2008 sau đó sụt giảm mạnh trong các năm 2009 – 2010. Sức ép cạnh tranh quốc tế mà nhất là cạnh tranh với hàng xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng gay gắt. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ và các rào cản thương mại ngày càng tinh vi hơn. Sự biến động mạnh của tỷ giá giữa các đồng tiền mạnh, nhất là của đồng Nhân dân tệ và đô la Mỹ dẫn đến rủi ro hối đoái ngày càng lớn ... Tình hình kinh tế trong nước cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn do các yếu tố nội tại và do tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nổi cộn là lạm phát tăng cao trong các năm 2006 – 2007, nền kinh tế từ trạng thái tăng trưởng “nóng” trong các năm 2003 – 2007 chuyển sang suy giảm mạnh trong các năm 2008 -2010, đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, cán cân thanh toán vãng lại bị thâm hụt lớn, tình trạng “bong bóng” của thị trường chứng khoán và tình trạng “đô la hoá”, “vàng hoá” của nền kinh tế ... chậm được khắc phục. 6 (4) Tốc độ và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu thấp, chủ yếu do các nguyên nhân nội tại của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu vẫn đang chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp, hệ số ICOR tăng nhanh từ mức 4,4 trong giai đoạn 2001 – 2006 lên 5,3 trong năm 2007 và 6,55 trong năm 2008, xấp xỉ 7,0 trong năm 2009 – 2010, cao hơn 2 lần các nước trong khu vực khi ở giai đoạn công nghiệp hoá tương tự như Việt Nam. Cơ cấu đầu tư mất cân đối, thiên về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư hình thành tài sản vốn con người và khoa học công nghệ thấp. Tốc độ đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ toàn nền kinh tế chỉ đạt 6 – 7%/năm. Tỷ lệ đầu tư cho R & D trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1 – 0,2%, riêng các ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp mũi nhọn tỷ lệ này cũng chỉ đạt 0,2 -0,25%. Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 2001 – 2010, yếu tố năng suất lao động chỉ đóng góp gần 30%, yếu tố vốn đóng góp khoảng 50% và yếu tố lao động đóng góp khoảng 20%. Chỉ số tăng năng suất lao động tổng hợp (TFP) của nền kinh tế vẫn đang có xu hướng giảm từ 2,56%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000, còn khoảng 1,7%/năm trong giai đoạn 2001 -2009. Chỉ số MVA/GO (giá trị gia tăng công nghiệp so với giá trị tổng sản lượng công nghiệp) tiếp tục giảm từ 38,4% trong năm 2000 xuống 24,8% trong năm 2008 và 21,2% trong năm 2009. Chỉ số giá trị gia tăng so với doanh thu của thương mại trong nước thời kỳ 2001 – 2009 không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24 – 29%. Tỷ lệ khai thác năng lượng so với thu nhập quốc dân vẫn đang có xu hướng tăng nhanh từ 9 – 12% trong giai đoạn 2000 -2004 lên 15 – 22% trong giai đoạn 2005 – 2009. Mức tiết kiệm năng lượng của công nghiệp Việt Nam thấp hơn mức tiết kiệm điện trung bình của thế giới, của khu vực (thời kỳ 1990-2005, mức tiết kiệm điện bình quân của Việt Nam là – 3,4% của Trung Quốc là + 3,3%). (5) Nhóm hàng công nghiệp chế biến tuy đang có lợi thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ, phát triển theo định hướng xuất khẩu, chiếm tới 43 – 45% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp nhưng chỉ chiếm dưới 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp và đã có xu hướng giảm từ 30% trong năm 2000 xuống 23.5% trong năm 2007 và còn 20% trong năm 2009, hoạt động gia công lằp ráp là chủ yếu, phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu nước ngoài và thích ứng chậm với 7 những biến động của thị trường thế giới. Nhóm hàng thô và sơ chế còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu (45 – 50%), độ co giãn về cung với thị trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. (6) Khu vực FDI là nhóm chủ thể chính đáng góp cho tăng trưởng xuất khẩu, nhất là nhóm hàng chế biến xuất khẩu. Nhưng tỷ trọng vốn FDI đăng ký vào công nghiệp chế biến trong tổng FDI đăng ký vào Việt Nam đã có xu hướng giảm liên tục từ 70,4% trong năm 2005 xuống 68,9% trong năm 2006, 51,0% trong năm 2007, 36% trong năm 2008 và còn 30% trong năm 2009, đã làm giảm nguồn hàng chế biến xuất khẩu trong các năm cuối của thời kỳ chiến lược 2001 – 2010. Ngay trước và sau khi gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đã điều chỉnh cơ cấu đầu tư từ các ngành công nghiệp chế biến định hướng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, có giá trị sản lượng lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận thấp và gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ sang các ngành công nghiệp khai thác và lĩnh vực bất động sản, tuy sử dụng nhiều vốn nhưng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Tỷ suất lợi nhuận (trước thuế) của những ngành thay thế nhập khẩu, công nghiệp khai thác và kinh doanh tài sản cao hơn nhiều so với các ngành định hướng xuất khẩu. Năm 2006, tỷ suất lợi nhuận của ngành dệt là 0,11%, may mặc là 0,61%, da giày là 0,05%, đồ gỗ là 0,19%. Mặt khác, trước năm 2005, đa số vốn FDI được tập trung vào các ngành cơ khí, chế tạo có hệ số bảo hộ cao (một số ngành có hệ số bảo hộ trên 80% như ô tô, xe máy, thiết bị điện ...) nhằm thay thế hàng nhập khẩu. Từ sau năm 2005, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn FDI đã có sự chuyển hướng mạnh từ các ngành công nghiệp chế biến có hệ số bảo hộ giảm mạnh và có giá trị gia tăng thấp, sang các ngành khai khoáng và khí đốt, lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng là những lĩnh vực có hệ số bảo hộ giảm ít nhưng hiệu quả đầu tư cao. Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm mạnh từ 40,38% năm 2005 xuống 28% năm 2009 (và dự ước còn 21,1% vào năm 2015), tỷ lệ bảo hộ thuế quan của những ngành này cũng giảm từ 19,45% năm 2005 xuống 13,7% năm 2009( và ước còn 10,65 vào năm 2015). Trong khi đó, tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành khai khoáng chỉ dao động từ 4,39% năm 2005 đến 4,43% năm 2009 (và còn 0,29 vào năm 2015); bảo hộ thuế quan trong 8 thời gian tương ứng là 3,85%, 3,38% (và 0,17%). Vì thế, ngay sau khi gia nhập WTO, tỷ trọng vốn FDI đăng ký vaà công nghiệp khai thác tài nguyên đã tăng vọt từ 1,2% năm 2007 lên 17,5% năm 2008 va khoảng trên 20% năm 2010, vào lĩnh vực kinh doanh tài sản cũng tăng mạnh từ 15,2% năm 2006 lên 28,6% năm 2007 và hiện nay là khoảng 30%, riêng vào khách sạn, nhà hàng tăng từ 4,2% năm 2006 lên 15,1% năm 2008. Đây là yếu tố quan trọng làm giảm nguồn hàng xuất khẩu và tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ mức 57,9% trong năm 2006 xuống 57,5% trong năm 2007, 42,35 trong năm 2009 và khoảng 47% trong năm 2010. (7) Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển và chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia thiết lập cơ sở sản xuất cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương ở Việt Nam. Đây là điểm khác biệt giữa Việt Nam với các nước ASESN 6, các nước này đã thu hút được nhiều tập đoàn đa quốc gia đặt cơ sở sản xuất cho khu vực tại nước họ nên kim ngạch xuất khẩu linh kiện điện tử, máy móc thiết bị điện và cơ khí chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước này sang Trung Quốc (được mệnh danh là công xưởng thế giới). Trong giai đoạn 2001 – 2007, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm sản phẩm này của Việt Nam chỉ đạt 8,7% trong kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc, chỉ số tương ứng của Philippin là 88,75, của Malaysia là 70%, của Thái Lan là 52,5%. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khách quan của việc nước ta chưa thể cân bằng được cán cân thương mại với Trung Quốc, điều mà các nước ASEAN đã làm được. (8) Trong cấu trúc nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có bước thụt lùi về công nghệ : giảm nhập khẩu công nghệ Trung – cao (- 6,5%) để tăng nhập khẩu công nghệ trung - thấp (+ 7,4%) đã tác động làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trong giai đoạn 2006 – 2010 và các năm tiếp theo. (9) Nhập khẩu và nhập siêu tăng cao có nguyên nhân chủ yếu từ các yếu tố nội tại của nền kinh tế, mở cửa thị trường nội địa sau khi hội nhập WTO và hội nhập các FTA, biến động của thị trường nguyên nhiên vật liệu thế giới ... Do mong muốn đạt được mức tăng trưởng GDPcao trong khi hiệu quả đầu tư thấp đã tạo ra vòng xoáy đầu tư tăng cao làm tăng nhu cầu nhập khẩu, nhưng hiệu quả đầu tư thấp nên giảm nguồn hàng xuất khẩu, mất cân bằng xuất -nhập và 9 nhập siêu tăng cao. Trong giai đoạn 2006 -2007, tính theo giá so sánh 1994, tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư xã hội luôn ở mức cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP (năm 2005 là 13%, năm 2006 là 13,7% và năm 2007 là 25,8%, gấp trên 4 lần tốc độ tăng GDP). Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 29,6% trong năm 2000 lên 45,6% trong năm 2007 và 43,1% trong năm 2008, nhưng hiệu quả đầu tư thấp và chậm được cải thiện (Đài Loan đạt tốc độ tăng trưởng GDP ở mức bình quân 10%/năm trong 18 năm liên tục nhưng tỷ lệ dtúv GDP chỉ ở mức 25%). Do hệ số ICOR cao (hiệu quả đầu tư thấp), đầu tư của khu vực Nhà nước chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nhưng lại kém hiệu quả hơn đầu tư của khu vực tư nhân nên hệ số ICOR chung của nền kinh tế càng tăng cao. Trong cơ cấu đầu tư xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng có xu hướng càng lớn từ năm 2005 đến nay, về cơ bản đã không làm tăng năng suất (nhu cầu đầu tư máy móc, thiết bị ..) cũng như không tạo ra các sản phẩm xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại, nhưng lại làm tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, nhất là vật liệu xây dựng cao cấp. Do đầu tư tăng cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, dẫn đến chi phí sản xuất cao, làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế thấp, làm giảm năng lực xuất khẩu và tăng nhu cầu nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn hạn chế, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn cao so với các nước trong khu vực, nhất là các chỉ số tiêu hao nguyên nhiên liệu, vật tư cho sản xuất chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu giá thành sản phẩm ... làm tăng nhu cầu nhập khẩu không hiệu quả. Do vậy, khí giá cả các loại nguyên nhiên vật liệu thế giới tăng cao trong giai đoạn 2006 – 2008, càng làm cho chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của ta tăng cao hơn các nước trong khu vực, dẫn đến song trùng với lạm phát là nhập siêu tăng cao trong giai đoạn c