Nhận thức rõ vai trò của xuất nhập khẩu (XNK) trong quá trình phát triển 
nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách 
lớn để XNK phát triển nhanh chóng, ổn định và đúng hướng. Sự điều chỉnh về
quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị 
trường hàng hoá, dịch vụ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT), tự do hoá thương mại và phát 
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo hiệu ứng mạnh đối với sự lưu 
chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu. Độ “mở” của nền kinh tế ngày càng rộng, 
nếu như năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (KNXNK) hàng hoá mới
bằng 90% giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) thì đến năm 2007 chỉ số này
đã là khoảng 160%. Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển nhanh hơn theo 
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán với
221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5 Châu lục, trong đó xuất khẩu (XK) tới 219 
thị trường, nhập khẩu (NK) từ 151 thị trường. Mặt hàng xuất khẩu được đa dạng
hoá về chủng loại; tăng qui mô và chất lượng; và chuyển dịch cơ cấu tích cực
theo hướng tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch 
xuất khẩu tăng dần, tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế giảm dần. Điểm
nổi bật trong xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam những nă m qua là đã xuất 
khẩu đến thị trường đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Một số mặt 
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có tiếng và chiếm thị phần khá lớn trê n 
thị trường thế giới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 41 trang
41 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2601 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích đánh giá nguyên nhân làm xuất khẩu tăng chậm, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO và các giải pháp khắc phục để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu trong thời kỳ tới năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG 
DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 
EU – VIỆT NAM 
HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG 
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT 
NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020” 
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 
PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ NGUYÊN NHÂN LÀM 
XUẤT KHẨU TĂNG CHẬM, NHẬP SIÊU TĂNG CAO 
SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO VÀ CÁC GIẢI PHÁP 
KHẮC PHỤC ĐỂ TĂNG XUẤT KHẨU, GIẢM NHẬP SIÊU 
TRONG THỜI KỲ TỚI NĂM 2020 
 ThS. Nguyễn Thanh Bình 
Hà Nội, 9 - 2010 
 1 
MỞ ĐẦU 
 Nhận thức rõ vai trò của xuất nhập khẩu (XNK) trong quá trình phát triển 
nền kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách 
lớn để XNK phát triển nhanh chóng, ổn định và đúng hướng. Sự điều chỉnh về 
quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị 
trường hàng hoá, dịch vụ. 
 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT), tự do hoá thương mại và phát 
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo hiệu ứng mạnh đối với sự lưu 
chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu. Độ “mở” của nền kinh tế ngày càng rộng, 
nếu như năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (KNXNK) hàng hoá mới 
bằng 90% giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) thì đến năm 2007 chỉ số này 
đã là khoảng 160%. Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển nhanh hơn theo 
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán với 
221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5 Châu lục, trong đó xuất khẩu (XK) tới 219 
thị trường, nhập khẩu (NK) từ 151 thị trường. Mặt hàng xuất khẩu được đa dạng 
hoá về chủng loại; tăng qui mô và chất lượng; và chuyển dịch cơ cấu tích cực 
theo hướng tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng kim ngạch 
xuất khẩu tăng dần, tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế giảm dần. Điểm 
nổi bật trong xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam những năm qua là đã xuất 
khẩu đến thị trường đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Một số mặt 
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có tiếng và chiếm thị phần khá lớn trên 
thị trường thế giới. 
 Trong thời kỳ chiến lược 2001 -2010, sau khi ký hiệp định thương mại 
song phương với Hoa Kỳ (BTA) năm 2001, tháng 11 năm 2006 nước ta đã gia 
nhập WTO và tháng 10/2007 nước ta chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ 
chức Thương mại Thế giới. Đồng thời, Việt Nam đã tiếp tục hội nhập thương 
mại khu vực sâu hơn trong khung khổ của 6 FTA khu vực (AFTA, ACFTA, 
AKFTA, AJFTA, AANZFTA, AIFTA). Tỷ trọng thương mại hai chiều giữa 
Việt Nam với 15 đối tác đã ký FTA chiếm gần 60% tổng giá trị kim ngạch ngoại 
thương cùa Việt Nam, trong đó chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 
70% kim ngạch nhập khẩu. Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, các rào cản 
 2 
thương mại đã giảm đáng kể nên hàng Việt Nam đã mở rộng được thị phần sang 
các thị trường lớn, tăng kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 2007, nhờ hiệu ứng tích 
cực của việc gia nhập WTO, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt 
Nam được cải thiện, dòng chảy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh, sản lượng 
các ngành kinh tế theo định hướng xuất khẩu cũng tăng, góp phần quan trọng 
vào tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng GDP. 
 Tuy nhiên, ngay sau khi gia nhập WTO, nhập khẩu và nhập siêu của Việt 
Nam tăng cao, tăng trưởng xuất khẩu chậm lại tác động mạnh đến các cân đối 
kinh tế vĩ mô, làm gia tăng tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai ... Năm 2006, tỷ 
lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu chỉ ở mức 12,7%, năm 2007 tăng vọt 
lên 29,1%, năm 2008 giảm nhẹ còn 28,7%, năm 2008 vẫn ở mức 21,36% và 
năm 2010 còn khoảng 16,8%. Nhập siêu đồng hành với thâm hụt cán cân thu – 
chi dịch vụ tạo ra thâm hụt “kép” cán cân thương mại và là thành tố chính gây ra 
thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Sau khi gia nhập WTO, cán cân thanh 
toán vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt trầm trọng, từ 164 triệu USD năm 2006 
lên xấp xỉ 7 tỷ USD năm 2007, vọt lên 12,1 tỷ USD năm 2008 (bằng 11,8% 
GDP) và năm 2009 thâm hụt khoảng 8 tỷ USD (bằng 7,8%GDP). Đây là mức 
rất cao so với ngưỡng an toàn chung của các nền kinh tế trên thế giới (thâm hụt 
vượt ngưỡng 5% GDP được coi là trạng thái mất an toàn cán cân thanh toán). 
 Với lý do nêu trên, việc nghiên cứu để làm rõ nguyên nhân của hiện tượng 
sau khi Việt Nam gia nhập WTO, tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, nhập siêu 
tăng cao nhằm đề ra giải pháp khắc phục để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu 
trong thời kỳ chiến lược 2011 – 2020 là rất cần thiết, góp phần thực hiện mục 
tiêu chiến lược cân bằng được cán cân thương mại vào năm 2020. 
 Báo cáo chuyên đề nghiên cứu khoa học này bước đầu giải đáp vấn đề 
quan trọng nêu trên. Kết cấu nội dung chuyên đề gồm 3 phần: 
 I. Khái quát chung. 
 II. Phân tích, đánh giá một số nguyên nhân chủ yếu làm xuất khẩu tăng 
chậm lại, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 
 III. Một số giải pháp để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu thời kỳ tới năm 
2020. 
 3 
 I.- KHÁI QUÁT CHUNG 
 1. Tình hình tăng trưởng xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam 
từ khi gia nhập WTO đến nay 
 - Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình 
quân 17%/năm, thấp hơn 2,15 điểm phần trăm so với giai đoạn 2001-2005 
(19,15%/năm). Kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình 
quân 17,17%/năm, thấp hơn 1,48 điểm phần trăm so với giai đoạn 2001-2005, 
nhưng vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của giai đoạn 2008-2010 0,17 
điểm phần trăm. Thời kỳ 2001-2010, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 
17,3%/năm nhưng kim ngạch nhập khẩu đã tăng bình quân 18,2%/năm, nhanh 
hơn 1,2 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (riêng giai đoạn 2006-2010 
nhanh hơn 1,05 lần), nhập siêu tăng cao trong giai đoạn 2006-2010, đỉnh điểm là 
năm 2007 và 2008. 
 - Nhập siêu từ khu vực thị trường ASEAN có xu hướng giảm xuống còn 
từ Trung Quốc tăng nhanh. Năm 2009 Trung Quốc chiếm 89,72% giá trị nhập 
siêu của Việt Nam. (Xem bảng 1) 
Bảng 1: Tăng trưởng xuất nhập khẩu và tình trạng nhập siêu 
của Việt Nam 2006-2010 
Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009 Ứớc 
2010 
1.Xuất khẩu (FOB) 
Tăng trưởng 
Tr. USD 
% 
39.826 
22,74 
48.561 
21,33 
62.685 
29,1 
57.096 
- 8,91 
71.000 
24,3 
2.Nhập khảu (CIF) 
Tăng trưởng 
Tr. USD 
% 
44,891 
22,1 
62.682 
39,8 
80,714 
28,6 
69.949 
-13,3 
83.000 
19,17 
3.Nhập siêu 
Tỷ lệ NS/XK 
Tr. USD 
% 
-5.064 
12,71 
-14.204 
29,24 
-18.029 
28,76 
-12.853 
22,51 
-12.000 
16,9 
4.Nhập siêu từ 
ASEAN 
Tỷ lệ 4/3 
Tr. USD 
% 
-5.913 
116,74 
-7.950 
55,97 
- 9.376 
52,0 
- 5.227 
40,66 
(8T) 
-3.458 
 20,46 
 4 
5.Nhập siêu từ 
ASEAN + 3 
Tỷ lệ 5/3 
Tr. USD 
% 
-12.588 
248,5 
-22.938
163,5
25.478 
141,0 
-16.567 
128,9 
(8T) 
-13.340 
111,16 
6.Nhập siêu từ 
Trung Quốc 
Tỷ lệ 6/3 
Tr. USD 
% 
-4.361 
86,1 
- 9.145
64,38
-11.117 
61,66 
-11.532 
89,72 
(8T) 
-8.000 
47,33 
 Nguồn: Cục công nghệ Thông tin và thống kê hải quan 
 2. Khái quát bối cảnh và nguyên nhân làm xuất khẩu tăng chậm, 
nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO 
 (1) Về mặt chủ quan, việc xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 
2001- 2010 chưa phù hợp với tính chu kỳ của nền kinh tế thế giới và trong nước, 
chưa phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động và hội nhập quốc 
tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. “Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-
2010” được xây dựng trong bối cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam đang ở đáy 
của kỳ suy thoái để chuyển sang giai đoạn phục hồi và tăng trưởng. Kết quả 5 
năm đầu thực hiện chiến lược, hầu hết các chỉ tiêu về qui mô và tốc độ tăng 
trưởng xuất nhập khẩu đều không phù hợp (cao hơn) so với mục tiêu Chiến lược 
đã đề ra. 
Để phù hợp với bối cảnh mới khi Việt Nam gia nhập WTO, ký kết các 
FTA khu vực, kinh tế thế giới và Việt Nam đang ở kỳ tăng trưởng cao ..., 
ngày30/6/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 156/2006/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án : “Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010”. Trong đó, 
đã điều chỉnh một số chỉ tiêu cụ thể theo hướng nâng qui mô, tốc độ và chất 
lượng tăng trưởng cao hơn so với các chỉ tiêu đã xác định trong chiến lược, 
nhưng lại không phù hợp với trạng thái kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam sau 
khi đạt ngưỡng tăng trưởng cao trong các năm 2007 -2008 đã bước vào kỳ suy 
giảm mạnh trong các năm 2009 -2010. Vì thế, phần lớn các chỉ tiêu về qui mô 
và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu đã xác định trong Đề án đều cao hơn kết 
quả thực hiện. 
 5 
 (2) Hội nhập WTO và hội nhập các FTA chưa thu được lợi ích quốc gia 
như kỳ vọng, có những hiệu ứng bất lợi không mong muốn. Quá trình hội nhập 
các FTA chưa phù hợp với định hướng điều chỉnh chiến lược thị trường. Hệ 
thống luật pháp và năng lực quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực trực tiếp 
liên quan đến hội nhập WTO và các FTA còn bất cập. Kết cấu hạ tầng, nhất là 
hạ tầng phát triển thương mại và dịch vụ logistics còn yếu kém. Chất lượng 
nguồn nhân lực tham gia hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập các FTA còn nhiều 
hạn chế, cả ở trong khâu đàm phán ký kết các điều ước quốc tế về thương mại 
và thực hiện các cam kết. Sự thiếu đồng bộ giữa chiến lược phát triển xuất khẩu 
và sự tham gia 6 FTA khu vực cũng là nguyên nhân chủ quan dẫn tới cơ cấu 
xuất, nhập khẩu không chuyển dịch theo mong muốn của ta trong chiến lược và 
đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010. 
 (3) Những hạn chế, yếu kém trong phát triển xuất nhập khẩu 10 năm qua 
do những tác động bất lợi của bối cảnh kinh tế thế giới và tình hình kinh tế trong 
nước. Nổi cộm là sự biến động mạnh của thị trường nguyên, nhiên vật liệu thế 
giới các năm 2007 – 2008, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh 
tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay làm nhu cầu nhập khẩu của thị trường thế giới 
sụt giảm, các điều kiện về tài chính trên thị trường toàn cầu trở nên khó khăn 
hơn. Kinh tế thế giới tăng trưởng cao đạt ngưỡng vào năm 2008 sau đó sụt giảm 
mạnh trong các năm 2009 – 2010. Sức ép cạnh tranh quốc tế mà nhất là cạnh 
tranh với hàng xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng gay gắt. Sự trỗi dậy của 
chủ nghĩa bảo hộ và các rào cản thương mại ngày càng tinh vi hơn. Sự biến 
động mạnh của tỷ giá giữa các đồng tiền mạnh, nhất là của đồng Nhân dân tệ và 
đô la Mỹ dẫn đến rủi ro hối đoái ngày càng lớn ... Tình hình kinh tế trong nước 
cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn do các yếu tố nội tại và 
do tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nổi 
cộn là lạm phát tăng cao trong các năm 2006 – 2007, nền kinh tế từ trạng thái 
tăng trưởng “nóng” trong các năm 2003 – 2007 chuyển sang suy giảm mạnh 
trong các năm 2008 -2010, đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, cán cân thanh 
toán vãng lại bị thâm hụt lớn, tình trạng “bong bóng” của thị trường chứng 
khoán và tình trạng “đô la hoá”, “vàng hoá” của nền kinh tế ... chậm được khắc 
phục. 
 6 
 (4) Tốc độ và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu thấp, chủ yếu do các 
nguyên nhân nội tại của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu 
vẫn đang chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp, hệ 
số ICOR tăng nhanh từ mức 4,4 trong giai đoạn 2001 – 2006 lên 5,3 trong năm 
2007 và 6,55 trong năm 2008, xấp xỉ 7,0 trong năm 2009 – 2010, cao hơn 2 lần 
các nước trong khu vực khi ở giai đoạn công nghiệp hoá tương tự như Việt 
Nam. Cơ cấu đầu tư mất cân đối, thiên về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư 
hình thành tài sản vốn con người và khoa học công nghệ thấp. Tốc độ đổi mới 
máy móc thiết bị và công nghệ toàn nền kinh tế chỉ đạt 6 – 7%/năm. Tỷ lệ đầu tư 
cho R & D trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1 – 
0,2%, riêng các ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp mũi nhọn tỷ 
lệ này cũng chỉ đạt 0,2 -0,25%. Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh 
tế thời kỳ 2001 – 2010, yếu tố năng suất lao động chỉ đóng góp gần 30%, yếu tố 
vốn đóng góp khoảng 50% và yếu tố lao động đóng góp khoảng 20%. Chỉ số 
tăng năng suất lao động tổng hợp (TFP) của nền kinh tế vẫn đang có xu 
hướng giảm từ 2,56%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000, còn khoảng 1,7%/năm 
trong giai đoạn 2001 -2009. Chỉ số MVA/GO (giá trị gia tăng công nghiệp so 
với giá trị tổng sản lượng công nghiệp) tiếp tục giảm từ 38,4% trong năm 2000 
xuống 24,8% trong năm 2008 và 21,2% trong năm 2009. Chỉ số giá trị gia tăng 
so với doanh thu của thương mại trong nước thời kỳ 2001 – 2009 không có xu 
hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24 – 29%. Tỷ lệ khai thác năng lượng so với 
thu nhập quốc dân vẫn đang có xu hướng tăng nhanh từ 9 – 12% trong giai đoạn 
2000 -2004 lên 15 – 22% trong giai đoạn 2005 – 2009. Mức tiết kiệm năng 
lượng của công nghiệp Việt Nam thấp hơn mức tiết kiệm điện trung bình của thế 
giới, của khu vực (thời kỳ 1990-2005, mức tiết kiệm điện bình quân của Việt 
Nam là – 3,4% của Trung Quốc là + 3,3%). 
 (5) Nhóm hàng công nghiệp chế biến tuy đang có lợi thế cạnh tranh về giá 
nhân công rẻ, phát triển theo định hướng xuất khẩu, chiếm tới 43 – 45% tổng giá 
trị sản phẩm công nghiệp nhưng chỉ chiếm dưới 30% tổng MVA toàn ngành 
công nghiệp và đã có xu hướng giảm từ 30% trong năm 2000 xuống 23.5% 
trong năm 2007 và còn 20% trong năm 2009, hoạt động gia công lằp ráp là chủ 
yếu, phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu nước ngoài và thích ứng chậm với 
 7 
những biến động của thị trường thế giới. Nhóm hàng thô và sơ chế còn chiếm tỷ 
trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu (45 – 50%), độ co giãn về cung với thị trường 
thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm thích ứng với những biến động của 
thị trường thế giới. 
 (6) Khu vực FDI là nhóm chủ thể chính đáng góp cho tăng trưởng xuất 
khẩu, nhất là nhóm hàng chế biến xuất khẩu. Nhưng tỷ trọng vốn FDI đăng ký 
vào công nghiệp chế biến trong tổng FDI đăng ký vào Việt Nam đã có xu hướng 
giảm liên tục từ 70,4% trong năm 2005 xuống 68,9% trong năm 2006, 51,0% 
trong năm 2007, 36% trong năm 2008 và còn 30% trong năm 2009, đã làm 
giảm nguồn hàng chế biến xuất khẩu trong các năm cuối của thời kỳ chiến 
lược 2001 – 2010. Ngay trước và sau khi gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước 
ngoài đã điều chỉnh cơ cấu đầu tư từ các ngành công nghiệp chế biến định 
hướng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, có giá trị sản lượng lớn nhưng tỷ suất 
lợi nhuận thấp và gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ sang các ngành công 
nghiệp khai thác và lĩnh vực bất động sản, tuy sử dụng nhiều vốn nhưng có tỷ 
suất lợi nhuận cao hơn. Tỷ suất lợi nhuận (trước thuế) của những ngành thay thế 
nhập khẩu, công nghiệp khai thác và kinh doanh tài sản cao hơn nhiều so với các 
ngành định hướng xuất khẩu. Năm 2006, tỷ suất lợi nhuận của ngành dệt là 
0,11%, may mặc là 0,61%, da giày là 0,05%, đồ gỗ là 0,19%. Mặt khác, trước 
năm 2005, đa số vốn FDI được tập trung vào các ngành cơ khí, chế tạo có hệ 
số bảo hộ cao (một số ngành có hệ số bảo hộ trên 80% như ô tô, xe máy, thiết 
bị điện ...) nhằm thay thế hàng nhập khẩu. Từ sau năm 2005, nhất là sau khi 
Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn FDI đã có sự chuyển hướng mạnh từ các 
ngành công nghiệp chế biến có hệ số bảo hộ giảm mạnh và có giá trị gia tăng 
thấp, sang các ngành khai khoáng và khí đốt, lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách 
sạn, nhà hàng là những lĩnh vực có hệ số bảo hộ giảm ít nhưng hiệu quả đầu tư 
cao. Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm 
mạnh từ 40,38% năm 2005 xuống 28% năm 2009 (và dự ước còn 21,1% vào 
năm 2015), tỷ lệ bảo hộ thuế quan của những ngành này cũng giảm từ 19,45% 
năm 2005 xuống 13,7% năm 2009( và ước còn 10,65 vào năm 2015). Trong khi 
đó, tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành khai khoáng chỉ dao động từ 4,39% năm 
2005 đến 4,43% năm 2009 (và còn 0,29 vào năm 2015); bảo hộ thuế quan trong 
 8 
thời gian tương ứng là 3,85%, 3,38% (và 0,17%). Vì thế, ngay sau khi gia nhập 
WTO, tỷ trọng vốn FDI đăng ký vaà công nghiệp khai thác tài nguyên đã tăng 
vọt từ 1,2% năm 2007 lên 17,5% năm 2008 va khoảng trên 20% năm 2010, vào 
lĩnh vực kinh doanh tài sản cũng tăng mạnh từ 15,2% năm 2006 lên 28,6% năm 
2007 và hiện nay là khoảng 30%, riêng vào khách sạn, nhà hàng tăng từ 4,2% 
năm 2006 lên 15,1% năm 2008. Đây là yếu tố quan trọng làm giảm nguồn hàng 
xuất khẩu và tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm 
từ mức 57,9% trong năm 2006 xuống 57,5% trong năm 2007, 42,35 trong năm 
2009 và khoảng 47% trong năm 2010. 
 (7) Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển và chưa có nhiều tập đoàn đa quốc 
gia thiết lập cơ sở sản xuất cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương ở Việt Nam. 
Đây là điểm khác biệt giữa Việt Nam với các nước ASESN 6, các nước này đã 
thu hút được nhiều tập đoàn đa quốc gia đặt cơ sở sản xuất cho khu vực tại nước 
họ nên kim ngạch xuất khẩu linh kiện điện tử, máy móc thiết bị điện và cơ khí 
chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước này 
sang Trung Quốc (được mệnh danh là công xưởng thế giới). Trong giai đoạn 
2001 – 2007, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm sản phẩm này của Việt 
Nam chỉ đạt 8,7% trong kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc, chỉ số tương 
ứng của Philippin là 88,75, của Malaysia là 70%, của Thái Lan là 52,5%. Đây 
cũng là một trong những nguyên nhân khách quan của việc nước ta chưa thể 
cân bằng được cán cân thương mại với Trung Quốc, điều mà các nước ASEAN 
đã làm được. 
 (8) Trong cấu trúc nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có bước 
thụt lùi về công nghệ : giảm nhập khẩu công nghệ Trung – cao (- 6,5%) để tăng 
nhập khẩu công nghệ trung - thấp (+ 7,4%) đã tác động làm giảm sức cạnh tranh 
của sản phẩm xuất khẩu trong giai đoạn 2006 – 2010 và các năm tiếp theo. 
 (9) Nhập khẩu và nhập siêu tăng cao có nguyên nhân chủ yếu từ các yếu 
tố nội tại của nền kinh tế, mở cửa thị trường nội địa sau khi hội nhập WTO và 
hội nhập các FTA, biến động của thị trường nguyên nhiên vật liệu thế giới ... Do 
mong muốn đạt được mức tăng trưởng GDPcao trong khi hiệu quả đầu tư thấp 
đã tạo ra vòng xoáy đầu tư tăng cao làm tăng nhu cầu nhập khẩu, nhưng hiệu 
quả đầu tư thấp nên giảm nguồn hàng xuất khẩu, mất cân bằng xuất -nhập và 
 9 
nhập siêu tăng cao. Trong giai đoạn 2006 -2007, tính theo giá so sánh 1994, tốc 
độ tăng trưởng vốn đầu tư xã hội luôn ở mức cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP 
(năm 2005 là 13%, năm 2006 là 13,7% và năm 2007 là 25,8%, gấp trên 4 lần tốc 
độ tăng GDP). Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 29,6% trong 
năm 2000 lên 45,6% trong năm 2007 và 43,1% trong năm 2008, nhưng hiệu quả 
đầu tư thấp và chậm được cải thiện (Đài Loan đạt tốc độ tăng trưởng GDP ở 
mức bình quân 10%/năm trong 18 năm liên tục nhưng tỷ lệ dtúv GDP chỉ ở mức 
25%). Do hệ số ICOR cao (hiệu quả đầu tư thấp), đầu tư của khu vực Nhà nước 
chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nhưng lại kém hiệu quả hơn đầu tư 
của khu vực tư nhân nên hệ số ICOR chung của nền kinh tế càng tăng cao. 
Trong cơ cấu đầu tư xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh tài sản, 
khách sạn, nhà hàng có xu hướng càng lớn từ năm 2005 đến nay, về cơ bản đã 
không làm tăng năng suất (nhu cầu đầu tư máy móc, thiết bị ..) cũng như không 
tạo ra các sản phẩm xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại, nhưng lại làm 
tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, nhất là vật liệu xây dựng cao cấp. 
 Do đầu tư tăng cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, dẫn đến chi phí 
sản xuất cao, làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế thấp, làm 
giảm năng lực xuất khẩu và tăng nhu cầu nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh của 
các doanh nghiệp còn hạn chế, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn cao 
so với các nước trong khu vực, nhất là các chỉ số tiêu hao nguyên nhiên liệu, vật 
tư cho sản xuất chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu giá thành sản phẩm ... làm tăng nhu 
cầu nhập khẩu không hiệu quả. Do vậy, khí giá cả các loại nguyên nhiên vật liệu 
thế giới tăng cao trong giai đoạn 2006 – 2008, càng làm cho chi phí sản xuất và 
giá thành sản phẩm của ta tăng cao hơn các nước trong khu vực, dẫn đến song 
trùng với lạm phát là nhập siêu tăng cao trong giai đoạn c