Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói
riêng và khu vực nói chung, điều này đã đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế và chính
sách tài chính Việt Nam trước những thách thức lớn lao, đòi hỏi phải cải cách toàn diện.
Tuy nhiên, thuế thu nhập cá nhân hiện đang đóng góp rất ít cho tổng số thu thuế tại quốc
gia đang phát triển như Việt Nam. Vấn đề bất ổn trong xã hội là có sự phân hóa lớn giữa tầng
lớp giàu và tầng lớp nghèo, nếu như chúng ta không sớm tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp
khắc phục hạn chế này thì mục tiêu đặt ra sẽ gặp phải rất nhiều bất lợi. Nếu như thu nhập từ
tiền lương, tiền công có thể kiểm soát từ nguồn phát sinh thì việc kiểm soát và xác minh thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn lại là một vấn đề khó khăn trong bối cảnh tính
minh bạch của thông tin còn yếu kém như Việt Nam hiện nay
32 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI
VIỆT NAM.
GVHD: PGS TS NGUYỄN NGỌC HÙNG
HVTH: Đoàn Thị Xuân Duyên
Cao Học Ngân hàng Đêm 6 - Khóa 20
TP.HCM, tháng 08 năm 2012.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói
riêng và khu vực nói chung, điều này đã đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế và chính
sách tài chính Việt Nam trước những thách thức lớn lao, đòi hỏi phải cải cách toàn diện.
Ngh Quy t Đ i h i Đ ng IX và X đã xác đ nh “Áp d ng thu thu nh p cá nhân th ng
nh t và thu n l i cho m i đ i t ng ch u thu , b o đ m công b ng xã h i và t o đ ng
l c phát tri n” và “Hoàn thi n h th ng pháp lu t v thu theo nguyên t c công b ng,
th ng nh t và đ ng b … Đi u ch nh chính sách thu theo h ng gi m và n đ nh thu
su t, m r ng đ i t ng thu, đi u ti t h p lý thu nh p”. Nh m th c hi n theo ngh
quy t c a Đ ng và nâng cao năng l c c nh tranh qu c gia, t t c các chính sách thu
hi n hành đ u đã đ c thay đ i theo h ng gi m nghĩa v thu , th c hi n nguyên t c
công b ng gi a các đ i t ng ch u thu . H ng đ n m t chính sách thu nói chung và
thu thu nh p cá nhân nói riêng đ t t i u và hi u qu là đi u t t y u nh m góp ph n
đi u ti t b t m t ph n thu nh p t các t ng l p ng i có thu nh p cao trong xã h i, hình
thành các qu ti n t t p trung giúp Nhà n c ngày càng th c hi n t t h n các chính
sách xã h i c a mình.
Tuy nhiên, thuế thu nhập cá nhân hiện đang đóng góp rất ít cho tổng số thu thuế tại quốc
gia đang phát triển như Việt Nam. Vấn đề bất ổn trong xã hội là có sự phân hóa lớn giữa tầng
lớp giàu và tầng lớp nghèo, nếu như chúng ta không sớm tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp
khắc phục hạn chế này thì mục tiêu đặt ra sẽ gặp phải rất nhiều bất lợi.. Nếu như thu nhập từ
tiền lương, tiền công có thể kiểm soát từ nguồn phát sinh thì việc kiểm soát và xác minh thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn lại là một vấn đề khó khăn trong bối cảnh tính
minh bạch của thông tin còn yếu kém như Việt Nam hiện nay.
Chính từ những thực tiễn trên, nhằm mục đích hiểu thấu đáo về tác động của thuế thu nhập
cá nhân đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó xây dựng cải tiến chính sách
thuế phù hợp, vấn đề nghiên cứu “ Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam” đã trở nên cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục đích chủ yếu của tiểu luận này là dựa trên những lý luận cơ bản về thuế Thu nhập cá
nhân đối với hoạt động kinh doanh, tập trung phân tích, đánh giá thực trạng việc áp dụng thuế
Thu nhập cá nhân đối với những người có thu nhập từ hoạt động kinh doanh ở nước ta từ năm
2009 đến nay. Trên cơ sở có tham khảo việc áp dụng thuế Thu nhập cá nhân ở một số quốc gia
trên thế giới và cơ sở lý luận, từ đó đưa ra những vấn đề cần hoàn thiện và xây dựng một chính
sách thuế Thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ hoạt động kinh doanh sao cho phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để khái quát lên những lý luận cơ bản
về thuế Thu nhập cá nhân đối với hoạt động kinh doanh và bằng phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm từ thực tế, kết hợp thêm phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá quá trình áp dụng
Thuế Thu nhập đối với hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế Việt Nam. Từ đó đưa ra
những nguyên nhân tồn tại và định hướng các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và xây dựng
một chính sách thuế Thu nhập cá nhân đối với hoạt động kinh doanh phù hợp với chủ trương
phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục đề tài tham khảo, và phụ lục, những nội
dung chính của đề tài được trình bài trong ba chương:
* Chương I: Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân
* Chương II: Phân tích các tác động của chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với thu
nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
* Chương III: Kiến nghị giải pháp xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với
thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân (thuế TNCN)
1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân (TNCN)
a. Định nghĩa thu nhập
Tùy theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế quan niệm về thu nhập dưới các góc độ
khác nhau. Hai nhà kinh tế Anh là R.M Haig và H.G Simons đầu thế kỷ 20 đã đưa ra định
nghĩa về thu nhập (sau này gọi là định nghĩa Haig-Simons) cho rằng thu nhập là tổng giá trị
của cải ròng tăng lên của một cá nhân cộng với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian
nhất định, thường là một năm. Quan điểm này mang tính lý thuyết và được chấp nhận rộng rãi.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó thực hiện, vì giá trị tăng thêm mới chỉ tồn tại ở tiềm năng, mặt
khác lại biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như tiền, hàng hóa và dịch vụ song lại chỉ
được thực hiện khi có sự chuyển dịch quyền sở hữu.
Dựa trên cơ sở định nghĩa của Haig-Simons, các nhà kinh tế hiện đại đưa ra quan niệm mới
về thu nhập làm cơ sở đánh thuế TNCN
- Khái niệm bao quát: thu nhập là mọi khoản thu nhập ròng từ các nguồn sau khi khấu
trừ các chi phí tạo ra chúng.
- Quan niệm hạn hẹp: dựa trên cơ sở thu nhập chỉ giới hạn trong những lợi ích phát sinh
lặp đi lặp lại, có tính liên tục để hình thành phương thức đánh thuế thu nhập từ các
nguồn phát sinh thu nhập.
Dựa trên các định nghĩa trên có thể nhận thấy thu nhập có đặc điểm chung sau: Thu nhập là
tổng các tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ là một chủ thể nào đó trong
nền kinh tế - xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua
quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian
nhất định (thường là một năm).
b. Thuế thu nhập cá nhân (thuế TNCN)
Thuế TNCN phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư cùng với sự phân chia giai
cấp, Thuế được giai cấp thống trị dùng như một công cụ để tạo ra nguồn thu chủ yếu cho mọi
nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước nói chung hay của giai cấp thống trị nói riêng.
Trên cơ sở những khái niệm về Thuế, chúng ta có thể rút ra khái niệm về thuế TNCN theo
pháp luật hiện hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá
nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân
sách nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến
khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối với các khoảng thu
nhập từ kinh doanh, đầu tư,…. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn
cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc
khoản miễn trừ đặc biệt.
1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân (thuế TNCN)
- Thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Do là
thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối
tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người nộp thuế cũng là người chịu thuế, người
chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế sang cho các đối
tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân
thuộc diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong
nước hay ở nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu
nhập từ hoạt động kinh doanh, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những
người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày
có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc theo luật
định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền lực, sức mạnh của Nhà
nước.
- Thuế TNCN là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Nó vận động
một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho Nhà nước do
được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
- Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia
đều gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác (như phúc lợi công
cộng, chăm sóc sức khỏe…).
Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập bao gồm: công dân
nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên tại nước đó và
hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu
nhập phát sinh trong nước hay ngoài nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân
sách của thuế TNCN rất cao.
Việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần. Đặc
điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập cao,
góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp
ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các loại thuế khác vì
việc tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế.
1.3. Vai trò của thuế TNCN
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến đổi lớn của điều kiện
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc ban hành Luật thuế TNCN ở nước ta là hết sức cần
thiết và có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Là một bộ phận của hệ thống thuế nên thuế TNCN
vừa mang vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác
không có được.
a. Đối với nền kinh tế- xã hội
* Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước
Thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng
góp một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện
rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực
tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và
cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh thần. Thuế TNCN luôn
có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng lên của thu nhập bình quân đầu người.
* Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Trong mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả
năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên,
các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về
thu nhập của mỗi người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là
sự bất bình đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình thức và
biện pháp khác nhau trong đó thuế TNCN được xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt
thu nhập của những người có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.
Hình: Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập
Để thấy rõ vai trò của thuế TNCN , có thể sử dụng đường cong Lorenz sau đây. Trên đồ
thị, đường cong Loenz càng gần đường phân giác thì càng phản ánh sự phân phối công bằng.
Điều đó được trợ giúp bởi thuế lũy tiến thông qua thực hiện thuế TNCN để đảm bảo rút ngắn
khoảng cách phân hóa giàu nghèo xã hội.
* Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng
lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát
thu nhập dân cư, nhà nước phải sử dụng đồng thời cả hai cơ chế quản lý quỹ tiền lương, tiền
công, chế độ báo cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN, tuy ban đầu
có thể chưa chính xác, nhưng sẽ là căn cứ để thống kê thu nhập dân cư phục vụ chương trình
mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp
luật, pháp chế xã hội được nâng lên.
Thông qua các cơ chế và công cụ quản lý đó mà nhà nước sẽ có giải pháp tăng cường hoặc
giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư làm cho tổng cầu xã hội giảm hoặc tăng, từ
đó có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế phát triển. Đó chính là vai trò quản lý điều tiết vĩ
mô nền kinh tế mà chính sách thuế TNCN góp phần tác dụng đáng kể.
Thực hiện điều tiết kinh tế trong điều kiện tăng năng suất và hiệu quả kinh tế theo lý thuyết
trọng cung, các nhà kinh tế học thuộc trường phái này mà đại diện là Laffer đã đưa ra đường
cong lý thuyết nổi tiếng là đường cong Laffer
Mô hình đường cong Laffer cho thấy mối quan hệ giữa thuế suất và tổng thu nhập từ thuế.
Nếu mức thuế được xác định cao hơn mức t0 sẽ gây ra phản ứng như hạ thấp động lực kinh
doanh, chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác chịu thuế thấp hơn, chuyển sang hoạt động ngầm
để trốn thuế. Điều này cho thấy, nếu thuế suất của thuế thu nhập hợp lý sẽ tác động kích thích
tăng trưởng kinh tế và tăng thu cho ngân sách. Việc nghiên cứu một mức thuế TNCN phù hợp
để nâng cao kích thích của nó được đánh giá quan trọng hơn vai trò công bằng mà nó tạo ra
trong phân phối thu nhập.
* Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực
hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà nhà
nước không kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh thuế,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân... Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu
đến đời sống kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn
chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến
vai trò của thuế TNCN.
b. Đối với hệ thống thuế
* Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược điểm là
có tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một
lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu
tính thuế TNCN theo phương pháp luỹ tiến từng phần sẽ góp phần khắc phục được nhược
điểm này
* Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế TNCN Giữa hai
loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế TNCN còn góp phần khắc
phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay
giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những
chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn
thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp
thêm thuế TNCN đối với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh
nghiệp tăng thường kéo theo sự tăng lên của thuế TNCN và thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
Xây dựng và phát triển, hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần hoàn thiện hệ
thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập với kinh tế thế giới.
Việc ban hành Luật thuế TNCN là bước thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về lĩnh
vực tài chính tiền tệ đồng thời là bước đi phù hợp lộ trình cải cách thuế theo mục tiêu chiến
lược Chính phủ đã hoạch định.
Nhận thức đúng vai trò vị trí hiện tại cũng như hướng phát triển hoàn chỉnh của chính sách
thuế TNCN, quán triệt đầy đủ nội dung yêu cầu của Luật thuế TNCN mới ban hành để tuyên
truyền, giáo dục pháp luật thuế, vận động toàn dân hiểu biết, chấp hành là nghĩa vụ và trách
nhiệm của các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, công dân theo quy định của Luật
Quản lý thuế, ban hành ngày 29/11/2006.
Tóm lại, Thuế TNCN đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia,
ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Dù không phải là mục tiêu
chủ yếu, song thực hiện phát triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng
chính là là việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với
xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc dân đầu
người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua thuế
TNCN sẽ ngày càng tăng và sẽ ngày một dồi dào. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN
còn nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước chậm
phát triển
2. Nguyên tắc đánh thuế TNCN:
- Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
Mặc dù cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau nhưng thực tế, không phải toàn bộ thu
nhập phát sinh đều thuộc đối tượng điều chỉnh của thuế TNCN. Thu nhập cá nhân chỉ điều
chỉnh phần thu nhập chịu thuế, vì vậy thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các thu nhập
được sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế.
- Đánh thuế TNCN theo phương pháp lũy tiến
Thuế TNCN chủ yếu là thuế lũy tiến: là sắc thuế có tỷ lệ ngày càng tăng theo thu nhập chịu
thuế, là loại thuế thu nhiều phần trăm hơn vào thu nhập của người có thu nhập cao và ít phần
trăm vào thu nhập của người có thu nhập thấp. Thuế lũy tiến được coi là phương pháp hữu
hiệu để đánh thuế theo khả năng trả thuế của cá nhân. Người thu nhập cao có nhiều khả năng
trả thuế hơn người thu nhập thấp. Cơ sở lý thuyết: độ hữu dụng biên của thu nhập giảm dần
3. Phân tích tác động của thuế TNCN đối với thu nhập
Tổn thất xã hội không chỉ xảy ra đối với thuế đánh vào hàng hóa mà còn xảy ra đối với
thuế đánh vào thu nhập. Trong đó, thuế lũy tiến làm thu hẹp cơ sở tính thuế (phần thuế áp dụng
cho người giàu chỉ bị đánh thuế dựa vào cơ sở thu nhập hẹp của người giàu). Thuế TNCN chỉ
đánh vào một nguồn lực làm cho tổn thất xã hội tăng nhanh hơn.
Giả sử ban đầu khi chính phủ chưa đánh thuế:
- Cung cầu lao động đạt tại mức cân bằng là A
- Tổn thất xã hội gần 0
Khi chính phủ đánh thuế thu nhập lũy tiến bậc 1: t
- Cung lao động sẽ giảm xuống S2
- Tổn thất xã hội: là tam giác ABC
Khi cá nhân chịu thuế thu nhập lũy tiến bậc 2: t’
- Cung lao động sẽ giảm xuống S3
- Tổn thất xã hội sẽ tăng lên là hình BCED, lúc này tổn thất xã hội là tam giác
ADE.
Tổn thất xã hội gia tăng theo bình phương thuế suất. Thuế lũy tiến làm gia tăng lợi ích
làm việc đối với những người có thu nhập thấp (vì họ không bị đánh thuế), làm giảm trừ
thêm lợi ích làm việc đối với người có thu nhập cao và dịch chuyển đường cung đến S3,
theo đó số giờ làm v iệc giảm. Sự thay đổi này làm gia tăng quy mô tổn thất xã hội. Khi
thu nhập càng tăng thì người có thu nhập cao từ hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ chịu
mức thuế suất lũy tiến càng cao nên sẽ làm giảm động lực sản xuất kinh doanh của họ.
Chương II: PHÂN TÍCH CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH TẠI VIỆT NAM
1. Khái quát về thuế TNCN đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh
ở Việt Nam
1.1 Cơ sở pháp lý
Theo quy định tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính, và
hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Thuế TNCN thì từ ngày 1/1/2009 sẽ bãi bỏ thuế thu
nhập doanh nghiệp áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh và chỉ thu thuế