Trong một nền kinh tế hội nhập như hiện nay ở Việt Nam, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các thành phần kinh tế là một điều tất yếu. Nó vừa tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển, vừa là một trở ngại lớn nếu doanh nghiệp không bắt kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Do đó, để có thể tồn tại và phát triển được, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững được tình hình tài chính, tình hình sản xuất - kinh doanh của mình để từ đó có những bước đi phù hợp với tiến trình hội nhập. Để làm được điều này, doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính, điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ được thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin, đánh giá được tiềm năng, hiệu quả sản xuất - kinh doanh nghiệp, rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp. Từ đó, họ có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Một thực tế có thể nhận thấy là tình hình tài chính của một doanh nghiệp không chỉ là sự quan tâm của chính bản thân doanh nghiệp mà nó còn là đối tượng quan tâm của rất nhiều chủ thể khác như các nhà đầu tư, các cổ đông tương lai của công ty cổ phần, người cho vay, Nhà nước, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, người lao động, các nhà nghiên cứu kinh tế. Vì thế, phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp sẽ không phải chỉ là công việc của một mình các nhà quản trị doanh nghiệp mà nó sẽ là đối tượng để các chủ thể khác phân tích tùy thuộc vào mục đích của họ sử dụng thông tin phân tích để làm gì.
Hiện nay, loại hình tổ chức công ty cổ phần đang dần dần chiếm ưu thế do những lợi thế mà nó mang lại. Từ năm 2001 đến nay, số doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa và trở thành các công ty cổ phần tăng khá nhanh cả về số lượng công ty lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Hoạt động của các công ty này nhìn chung là có hiệu quả hơn so với trước khi cổ phần hóa tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và trong các công ty cổ phần nói riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế, kết hợp với những kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường, các tài liệu tham khảo thực tế, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo – ThS. Lê Trung Thành, sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp các thông tin cần thiết của các cô chú trong phòng kế toán công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là: “ Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.”
Chuyên đề này ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm các nội dung chính sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty cổ phần.
Chương 2. Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Chương 3. Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
93 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4344 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số bảng
Nội dung
Trang
Bảng 2.1
Biểu kê khai năng lực cán bộ chuyên môn và kỹ thuật
Bảng 2.2
Biểu kê khai công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề
Bảng 2.3
Biểu kê khai số công nhân hợp đồng ngắn hạn
Bảng 2.4
Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn và tài sản
Bảng 2.5
Bảng các tỷ số về đảm bảo nguồn vốn
Bảng 2.6
Bảng phân tích tình hình đầu tư
Bảng 2.7
Bảng tình hình thanh toán của công ty
Bảng 2.8
Bảng các tỷ số phản ánh khả năng thanh toán của công ty
Bảng 2.9
Bảng các tỷ số phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
Bảng 2.10
Bảng phân tích khả năng sinh lời
Sơ đồ 2.1
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý công ty
Bảng 3.1
Bảng các chỉ tiêu phấn đấu trong năm 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong một nền kinh tế hội nhập như hiện nay ở Việt Nam, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các thành phần kinh tế là một điều tất yếu. Nó vừa tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển, vừa là một trở ngại lớn nếu doanh nghiệp không bắt kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Do đó, để có thể tồn tại và phát triển được, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững được tình hình tài chính, tình hình sản xuất - kinh doanh của mình để từ đó có những bước đi phù hợp với tiến trình hội nhập. Để làm được điều này, doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính, điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ được thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin, đánh giá được tiềm năng, hiệu quả sản xuất - kinh doanh nghiệp, rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp. Từ đó, họ có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Một thực tế có thể nhận thấy là tình hình tài chính của một doanh nghiệp không chỉ là sự quan tâm của chính bản thân doanh nghiệp mà nó còn là đối tượng quan tâm của rất nhiều chủ thể khác như các nhà đầu tư, các cổ đông tương lai của công ty cổ phần, người cho vay, Nhà nước, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, người lao động, các nhà nghiên cứu kinh tế... Vì thế, phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp sẽ không phải chỉ là công việc của một mình các nhà quản trị doanh nghiệp mà nó sẽ là đối tượng để các chủ thể khác phân tích tùy thuộc vào mục đích của họ sử dụng thông tin phân tích để làm gì.
Hiện nay, loại hình tổ chức công ty cổ phần đang dần dần chiếm ưu thế do những lợi thế mà nó mang lại. Từ năm 2001 đến nay, số doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa và trở thành các công ty cổ phần tăng khá nhanh cả về số lượng công ty lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Hoạt động của các công ty này nhìn chung là có hiệu quả hơn so với trước khi cổ phần hóa tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và trong các công ty cổ phần nói riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế, kết hợp với những kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường, các tài liệu tham khảo thực tế, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo – ThS. Lê Trung Thành, sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp các thông tin cần thiết của các cô chú trong phòng kế toán công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải, em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là: “ Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.”
Chuyên đề này ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm các nội dung chính sau:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty cổ phần.
Chương 2. Phân tích tài chính công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Chương 3. Giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Tiền Hải.
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính trong công ty cổ phần.
1.1. Những vấn đề lý luận hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần.
1.1.1.1. Khái niệm về công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp lần đầu tiên được hình thành trên Thế giới là cách đây hơn 400 năm. Loại hình doanh nghiệp này được phôi thai từ đầu thế kỷ thứ XV ở châu Âu, đến thế kỷ thứ XVI, dưới sự tác động của chủ nghĩa trọng thương cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đã hình thành nên các công ty hoạt động chủ yếu dựa trên vốn góp cổ phần. Và từ đó đến nay, hình thức công ty cổ phần ngày càng phát triển và đã chứng tỏ được những ưu thế của nó so với hình thức doanh nghiệp khác. Theo đó, công ty cổ phần là một doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của công ty trong phạm vi phần góp vốn của mình.
1.1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần:
Hình thức công ty cổ phần có những đặc điểm cơ bản sau:
Công ty cổ phần là một doanh nghiệp tổ chức kinh doanh, có tư cách pháp nhân, tồn tại riêng biệt và độc lập với chủ sở hữu của nó. Được thành lập theo pháp luật, được Nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế với các tổ chức và các cá nhân khác trong và ngoài nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình.
Công ty cổ phần được tự ấn định mục tiêu và xác định các phương tiện sử dụng để thực hiện các mục tiêu đó, được tự do phát triển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh theo pháp luật quy định, được đa dạng hóa, được thay đổi các hoạt động kinh doanh, được đình chỉ hoạt động theo ý công ty mà không phải tham khảo bất cứ một thẩm quyền nào.
Tài sản (vốn) trong các công ty cổ phần được hình thành từ những nguồn mang đặc điểm riêng biệt, bao gồm:
Vốn điều lệ: là vốn do các cổ đông dùng tiền hoặc tài sản của mình góp vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Vốn góp cổ phần là vốn chủ sở hữu, công ty được toàn quyền sử dụng vốn góp này. Tỷ lệ góp vốn của các cổ đông là căn cứ để công ty chia lợi nhuận sau mỗi kỳ hạch toán kinh doanh.
Các cổ đông của công ty cổ phần có trách nhiệm góp vốn vào công ty nhưng không được quyền rút vốn khỏi công ty trong thời gian công ty hoạt động để đảm bảo cho sự hoạt động của công ty. Tuy nhiên, các cổ đông có quyền bán lại cổ phiếu của mình cho người khác. Mọi hoạt động chuyển nhượng cổ phần này diễn ra với tư cách là cách là các giao dịch cá biệt nên không ảnh hưởng đến vốn điều lệ và hoạt động của công ty.
Vốn tự có: là lợi nhuận không chia hết cho các cổ đông mà được giữ lại để làm tăng vốn cho công ty. Đây chính là phần vốn mà công ty tự tạo ra trong quá trình sản xuất – kinh doanh.
Vốn vay: là nguồn mà công ty có được nhờ hình thức đi vay hoặc chiếm dụng vốn của các đơn vị khác, công ty chỉ được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định, sau đó phải hoàn trả lại cho chủ nợ kèm theo một khoản nhất định cho chủ nợ, chẳng hạn như lãi suất cho khoản vay ngân hàng, trái tức cho người mua trái phiếu của công ty... Khoản vốn vay bao gồm:
Vốn vay tín dụng ngân hàng: là số vốn mà công ty đi vay của ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Đến thời hạn hoàn trả, công ty phải trả số tiền gốc đã vay kèm theo một khoản chi phí nữa là lãi phải trả cho cho chủ nợ.
Vay từ phát hành trái phiếu trên thị trường vốn: khoản vốn này thường là vốn trung và dài hạn, được huy động trên thị trường vốn, các cá nhân, đơn vị đều có thể là chủ nợ.
Vay từ tín dụng thương mại: đây là hình thức công ty mua chịu hàng của nhà cung cấp, khi đó, công ty được sử dụng vốn của người khác và chi phí cho việc này là một khoản tiền phải trả do chiếm dụng vốn của đơn vị cung cấp.
Cổ đông trong công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Trong trường hợp công ty không đủ tài sản để thanh toán các khoản nợ cho khách hàng thì cổ đông không chịu trách nhiệm về các khoản nợ này.
Chức năng kinh tế của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trương: sản xuất sản phẩm, hàng hóa , dịch vụ để bán trên thị trường, bằng cách sử dụng các phương tiện vật chất, tài chính và nhân sự nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Cơ cấu lãnh đạo trong mỗi công ty cổ phần gồm ba bộ phận:
Đại hội cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của công ty, đại biểu bao gồm tất cả các cổ đông.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, được đại hội cổ đông bầu ra nhằm thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu mà đại hội cổ đông đã biểu quyết.
Ban giám đốc: do hội đồng quản trị bổ nhiệm gồm giám đốc và các phó giám đốc để điều hành công việc hằng ngày, tuân thủ theo chỉ thị và ý chí của đại hội cổ đông và hội đồng quản trị.
1.1.2. Những lợi thế và những hạn chế của công ty cổ phần.
1.1.2.1. Lợi thế:
Từ khi được hình thành và phát triển cho tới nay, công ty cổ phần là một trong những hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh được ưu chuộng trên thế giới. So với các hình thức công ty hợp doanh, công ty tư nhân và công ty TNHH thì hình thức công ty cổ phần có nhiều lợi thế hơn. Những lợi thế cơ bản của hình thức công ty cổ phần được thể hiện ở những điểm sau đây:
Trách nhiệm của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ nằm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (giống các thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn). Ưu điểm này làm cho hình thức công ty cổ phần rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì việc đầu tư vào các công ty với trách nhiệm hữu hạn như vậy sẽ ít rủi ro hơn là đầu tư và công ty trách nhiệm vô hạn.
Vốn kinh doanh của công ty cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do đó đa dạng về phương thức huy động vốn. Một trong những phương thức mà các công ty cổ phần thường sử dụng để tìm kiếm nguồn vốn cho mình đó là phát hành cổ phiếu ra thị trường (lợi thế hơn so với công ty TNHH và công ty hợp doanh). Nhờ ưu điểm này mà công ty cổ phần ít bị hạn chế về vốn kinh doanh, do đó có thể thực hiện được các dự án kinh doanh đòi hỏi nhiều vốn đầu tư.
Cổ phiếu trong các công ty cổ phần, đặc biệt là các công ty lớn có tỷ suất lợi nhuận cao có thể dễ dàng chuyển nhượng quyền sở hữu qua việc mua bán cổ phiếu trên thị trường mà không cần thay đổi tổ chức công ty. Cổ phiếu của các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán thường có thể dễ dàng được chuyển đổi thành tiền. sự dễ dàng chuyển đổi chủ sở hữu của các cổ phần này cho phép các công ty cổ phần tồn tại và phát triển lâu dài.
Một đặc điểm nổi bật nữa về ưu thế của hình thức tổ chức công ty cổ phần là sự tách biệt giữa chủ sở hữu với những người điều hành công ty. Do vậy họ thường phải lựa chọn những người điều hành có đủ năng lực và kinh nghiệm chuyên môn thay mình quản lý sản xuất – kinh doanh của công ty.
1.1.2.2. Hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế có được của hình thức này, hình thức tổ chức công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định, biểu hiện ở một số mặt như sau:
Chi phí cho việc thành lập và điều hành công ty thường tốn kém hơn so với các loại hình tổ chức công ty khác.
Hàng kỳ (thường là quý hoặc năm), các công ty cổ phần phải công khai và báo cáo với các cổ đông (theo nghị quyết và điều lệ của đại hội cổ đông) về tình hình sản xuất – kinh doanh và tình hình tài chính của mình. Do đó khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính trong các công ty cổ phần thường bị hạn chế, nhiều khi gây bất lợi cho công ty trong quá trình cạnh tranh với các đơn vị khác.
Phần lớn các cổ đông thường không có kiến thức về kinh doanh và không hiểu biết lẫn nhau (thường 6 tháng hoặc 1 năm mới tổ chức họp đại hội đồng cổ đông một lần). Số lượng cổ đông lớn cũng dễ dẫn đến sự phân hóa kiểm soát và tranh chấp về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông.
1.1.3. Nội dung của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
1.1.3.1. Hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Hoạt động tài chính trong bất cứ hình thức tổ chức doanh nghiệp nào cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, không một nền kinh tế nào hoạt động được mà không có tiền. Và để đồng tiền có được được quản lý và sử dụng một cách hiệu quả thì hoạt động tài chính trong doanh nghiệp phải được thực hiện một cách triệt để nhất. Chính vì thế, hoạt động tài chính doanh nghiệp trong công ty cổ phần nói riêng và trong các doanh nghiệp nói chung là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh và được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp bao gồm việc thu – chi và quản lý thu – chi tiền tệ phát sinh trong doanh nghiệp từ quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính trong doanh nghiệp và kết quả kinh doanh có mối quan hệ hai chiều. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp thực hiện được tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay cản trở mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, và ngược lại, hoạt động sản xuất - kinh doanh tốt hay xấu lại có tác động trở lại đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong một kỳ kinh doanh nào đó, tài chính của doanh nghiệp không cung ứng đầy đủ vốn để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động mua các yếu tố đầu vào thì quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị trì trệ, không diễn ra liên tục được, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Ngược lại, trong kỳ, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp không được tốt lắm do bán được ít hàng, điều này làm giảm doanh thu cũng như lợi nhuận, và do đó hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ không hoạt động được trơn tru nữa.
1.1.3.2. Nguyên tắc của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Để hoạt động tài chính của doanh nghiệp thực sự trở thành công cụ đắc lực, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp trước hết phải dựa trên nguyên tắc cơ bản sau: sử dụng vốn có mục đích, tiết kiệm và có lợi nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn một cách hợp pháp.
Vốn dùng để sản xuất - kinh doanh trong các công ty cổ phần phải được sử dụng theo đúng mục đích mà đại hội đồng cổ đông đã biểu quyết hoặc theo đúng điều lệ tổ chức công ty đã được Nhà nước phê duyệt, theo đúng nhiệm vụ và quyền hạn khi được phép thành lập công ty.
Việc sử dụng vốn của công ty cổ phần phải tuân thủ theo các quy định tài chính, kỷ luật tín dụng và kỷ luật thanh toán của Nhà nước đã ban hành. Việc cấp phát và thu – chi trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp phải theo đúng chế độ thu – chi của Nhà nước, của đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị. Không chi sai phạm vi quy định, không chiếm dụng vốn của ngân sách Nhà nước, của ngân hàng, của các đơn vị và cá nhân khác. Đồng thời, cũng không để các đơn vị khác chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Tức là phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có lợi để từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình, tăng lợi nhuận cho toàn công ty.
1.1.3.3. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Như trên ta đã biết, hoạt động tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình sản xuất - kinh doanh, nó là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh nghiệp. Do đó, mục tiêu của hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và trong công ty cổ phần nói riêng là hướng tới việc giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế thể hiện qua việc thanh toán với các đơn vị có liên quan như ngân hàng, các đơn vị kinh tế khác, các đối tượng có liên quan mật thiết với doanh nghiệp như các cổ đông, người lao động, các cơ quan chức năng Nhà nước... mối quan hệ này được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng, mặt chất và thời gian; hoạt động tài chính phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, nguyên tắc này đòi hỏi phải tối đa hóa việc sử dụng các nguồn vốn nhưng vẫn đảm bảo quá trình sản xuất - kinh doanh được hoạt động bình thường và mang lại hiệu quả; hoạt động tài chính được thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật, tuân thủ và chấp hành các chế độ về tài chính tín dụng, nghĩa vụ với Nhà nước, kỷ luật với các tổ chức, đơn vị kinh tế có liên quan.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước:
Doanh nghiệp phải thực hiện đủ, đúng thời hạn các nghĩa vụ về các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu (nếu có), thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có), thuế thu nhập doanh nghiệp..., không để nợ nần dây dưa kéo dài, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng của Nhà nước tính toán và thu các khoản nghĩa vụ đó.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các đơn vị khác:
Doanh nghiệp phải thanh toán đầy đủ và đúng kỳ hạn các khoản nợ phát sinh khi thực hiện các hoạt động mua hàng hóa, nguyên vật liệu, các dịch vụ đầu vào, không chiếm dụng vốn của các đơn vị đó một cách bất hợp pháp. Mặt khác, khi cung cấp các hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ do mình tạo ra, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ ghi nhận đầy đủ các nghiệp vụ liên quan, vừa tạo sự minh bạch trong việc tính toán nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp mình, vừa tạo thuận lợi cho các cơ quan chức năng của Nhà nước kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ của đơn vị đối tác. Và doanh nghiệp cũng không được để các đơn vị đó chiếm dụng vốn của mình một cách không hợp lý, điều này sẽ có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp do vốn bị ứ đọng ở khâu bán hàng, quay vòng sản xuất chậm.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên:
Tài chính doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thanh toán đầy đủ tiền lương và các khoản khác thuộc về thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp, không được sử dụng các khoản thu nhập nói trên vào các mục đích khác, gây ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các cổ đông:
Đây là mối quan hệ giữa những nhà quản lý doanh nghiệp với chủ sở hữu về tài sản. Mục tiêu của hoạt động tài chính trong giải quyết mối quan hệ này là tạo sự công bằng, hợp lý, công khai trong việc phân chia lợi nhuận theo quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cổ đông đúng như Đại hội cổ đông đã biểu quyết.
1.1.3.4. Nội dung cơ bản hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường.
Xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp:
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào hoạt động tài chính mà doanh nghiệp thực hiện. Vai trò đó của hoạt động tài chính được thể hiện ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, trong việc thiết lập các dự án đầu tư ban đầu, dự kiến hoạt động, gọi vốn đầu tư...
Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp đều chịu sự tác động về nhu cầu tài chính. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành được liên tục, thường xuyên và đạt hiệu quả cao thì khâu đầu tiên là phải xác định được và đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xác định nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp phải căn cứ vào chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp và nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Khi xác định được nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp rồi thì các nhà quản lý doanh nghiệp cũng có thể căn cứ vào đó để tìm ra các hướng làm giảm đến mức tối thiểu nhu cầu đó. Do đó xác định nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động tài chính trong các công ty cổ phần.
Tìm kiếm và huy động nguồn vốn để thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu về vốn kinh doanh đã xác định.
Trong các công ty cổ phần, vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: vốn góp ban đầu của các cổ đông; vốn vay từ các nguồn ngắn hạn và dài hạn như phát hành trái phiếu công ty, vay tín dụng