Sự đổi mói và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước luôn là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, đã vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, có sự đổi mới đúng hướng với bước đi thích hợp.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã có Nghị quyết 05-NQ/TW "Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh nhà nước". Đây là lần đầu tiên ban chấp hành TW Đảng ra một nghị quyết toàn diện về doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần quan trọng vào đẩy nhanh tốc độ phát triển, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng tốt các nhu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Qua ba tháng thực tập tại Công ty In Hàng không, em nhận thấy rằng vấn đề "làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh" là vấn đề được Công ty rất quan tâm. Mặc dù Công ty đã thực hiện nhiều biện pháp, song do những nguyên nhân chủ quan và khách quan nên vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty còn một số tồn tại cần khắc phục. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này em đã chọn đề tài:"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không" làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề này được chia làm ba phần:
Phần I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần II: Phân tích tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty In Hàng không.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2159 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty In Hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu.
Sự đổi mói và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước luôn là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, đã vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, có sự đổi mới đúng hướng với bước đi thích hợp.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã có Nghị quyết 05-NQ/TW "Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh nhà nước". Đây là lần đầu tiên ban chấp hành TW Đảng ra một nghị quyết toàn diện về doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần quan trọng vào đẩy nhanh tốc độ phát triển, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng tốt các nhu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...
Qua ba tháng thực tập tại Công ty In Hàng không, em nhận thấy rằng vấn đề "làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh" là vấn đề được Công ty rất quan tâm. Mặc dù Công ty đã thực hiện nhiều biện pháp, song do những nguyên nhân chủ quan và khách quan nên vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty còn một số tồn tại cần khắc phục. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này em đã chọn đề tài:"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không" làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề này được chia làm ba phần:
Phần I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần II: Phân tích tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty In Hàng không.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không.
Chương I
một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
I. Vai trò và chức năng của nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu từ nhiều phía khác nhau.
1. Quan điểm thứ nhất
Trước đây, người ta coi hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của Viện nghiên cứu khoa học thuộc Uỷ ban kế hoạch nhà nước Liên xô ( cũ ) đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy, ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó. Ngày nay, các quan điểm này không còn phù hợp. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí, mở rộng sản xuất các nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng hiệu quả.
2. Theo quan điểm thứ hai.
Hiệu quả được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân, hiệu quả sẽ cao khi các nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó cao, nhưng chi phí sản xuất hoặc các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn thì sao. Hơn nữa, điều kiện sản xuất năm hiện tại khác với những năm trước. Các yếu tố bên trong và bên ngoài của nền kinh tế có những ảnh hưởng khác nhau, việc chọn năm gốc so sánh có ảnh hưởng đến kết quả so sánh. Năm gốc bị mất mùa, thiên tai, cấm vận, kết quả kinh tế đạt thấp, thì năm nghiên cứu có hiệu quả cao. Với mỗi năm gốc khác nhau chúng ta lại có các mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu.
3. Quan điểm thứ ba.
Hiệu quả là quan điểm được trình bày trong giáo trình kinh tế học của P. Samueleson và W. Nordhaus (Viện quan hệ quốc tế Bộ Ngoại giao xuất bản, bản dịch tiếng Việt năm 1991). Các tác giả viết “Hiệu quả là một mối quan tâm trung tâm của kinh tế học.Hiệu quả nghĩa là không có lãng phí.
Trong ví dụ đơn giản súng chọi bơ, nền kinh tế hoạt động có hiệu quả khi nó không thể sản xuất một mặt hàng không có số lượng nhiều hơn mad không sản xuất một mặt hàng khác với số lượng ít hơn, khi nó nằm trên giới hạn khả năng sản xuất”.
“Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng (Potetial Gross National Product), là mức tổng sản phẩm quốc dân cao nhất có thể đạt được trong một tình hình công nghệ và dân số ổn định, đôi khi còn gọi là “sản lượng trong tình hình có nhiều công ăn việc làm”. Ngày nay người ta thường cho là tình hình đó tương đương với mức sản lượng tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp mà xã hội không thể tránh khỏi, là mức tối thiểu cần có do nhiều nguyên nhân mang tính tự nhiên, khách quan. Ví dụ như thôi việc để chuyển chỗ ở đi nơi khác, thôi việc nhằm chờ đợi một chỗ làm việc với mức lương cao hơn... Kinh tế càng phát triển mức sống càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên càng cao do có nhiều người tự nguyện thất nghiệp.
Tỷ lệ tổng sản phẩm quốc dân thực tế và tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng là chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu tuyệt đối chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế là phần sản lượng tiềm năng mà xã hội không sử dụng được, bị lãng phí.
Theo quan điểm này, hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức “tối đa” về sản lượng, tỷ lệ so sánh đó càng gần 1, càng có hiệu quả. Tỷ lệ đó bằng 1 khi hai mức đó bằng nhau, sản xuất xã hội nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó. Có những năm tỷ lệ đó lớn hơn 1, nền kinh tế quá nóng. Phương pháp tính trên cơ sở quan điểm này cho ta một cái nhìn ở tầm vĩ mô, tổng quát về trình độ sử dụng tiềm năng của xã hội. Phương pháp tính cũng đơn giản nếu xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp thực tế.
Tuy nhiên, vẫn có thể đặt ra những câu hỏi. Khái niệm sản lượng tiềm năng, giới hạn khả năng sản xuất là khá rõ ràng. Khi đã ở giới hạn, xã hội muốn tăng bơ thì phải giảm súng và ngược lại. Nhưng bước tiếp theo là điều khó hiểu. Sản lượng tiềm năng chỉ phụ thuộc vào lao động tiềm năng, là lượng lao động ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Còn vốn cố định và tài nguyên thì sao. Mức độ khai thác chúng có thể ảnh hưởng tới sản lượng tiềm năng không, chúng cũng có vai trò nhất định trong kinh tế. Sản lượng tiềm năng phải ứng cả với một tỷ lệ huy động tài sản cố định nào đó thì mới hợp lý.
Về thực tiễn tính toán thống kê ở nước ta, vẫn chưa thể tính chính xác được tỷ lệ thất nghiệp hiện nay và những năm tới. Và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nước ta hiện nay bao nhiêu là hợp lý. Do vậy, điều kiện thực tế nước ta chưa cho phép vận dụng quan điểm này.
Hơn nữa, có thể phương pháp này chỉ tính được ở phạm vi toàn nền kinh tế hoặc các vùng. Còn ngành thì tính sao. ở phạm vi ngành không thể có khái niệm thất nghiệp tự nhiên được. Sản lượng tiềm năng ở phạm vi ngành cũng có thể xác định được nhưng không phải tính trên cơ sở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Như vậy, phương pháp này chỉ thuận lợi ở phạm vi toàn nền kinh tế mà không áp dụng được cho phạm vi ngành, không tạo ra được mối liên hệ giữa hiệu quả toàn bộ và hiệu quả bộ phận. Khi đó chúng ta sẽ không phân tích được vai trò của các bộ phận, các ngành trong hiệu quả chung nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, quan điểm này rất độc đáo và có ý nghĩa về mặt nhận thức phạm trù hiệu quả, nhưng về lý luận và thực tiễn còn phải tìm hiểu thêm và thục tế chưa thể áp dụng ở nước ta.
4.Quan điểm thứ tư.
Coi hiệu quả là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống nhân dân, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, khó khăn ở đây lại là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng, rất đa dạng, rất phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, phản ánh trong các chỉ tiêu thống kê mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao mức sống là điều kiện khó khăn. Quỹ tiêu dùng là một bộ phận thu nhập quốc gia, bộ phận quốc gia còn lại là quỹ tích luỹ. Chọn quỹ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả là chưa thấy đầy đủ vai trò của quỹ tích luỹ là nhằm phats triển sản xuất, là để có tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Không thể đưa quỹ tiêu dùng lên tối đa mà lại không tuân theo một tỷ lệ thích hợp giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng, kết hợp một cách tốt nhất lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
ở đây, cần phân biệt hiệu quả và vai trò tác dụng của nó. Hiệu quả nói chung hay hiệu quả nền kinh tế nói riêng có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao mức sống nhân dân. Nó là phương tiện để đi đến thoả mãn mục tiêu cao hơn là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng và sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. Bản thân hiệu quả không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện, phải xác định nó ở dạng công cụ chứ không phải ở tác dụng của nó.
Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết mục tiêu, mỗi hệ thống đều có một mục tiêu ngoài (mục tiêu cuối cùng) cần đạt tới nhưng việc đạt tới nó phải thông qua mục tiêu trong là mục tiêu trực tiếp của hệ thống. Mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân của hệ thống kinh tế chỉ có thể thực hiện được khi đạt tới mục tiêu trong sản xuất thu nhập quốc gia với chi phí hợp lý tốt nhất và sự thực hiện mục tiêu trong trực tiếp đó mới phản ánh hiệu quả...
Vì vậy, hiệu quả của hệ thống kinh tế phải đo lường một cách trực tiếp bởi sự đáp ứng mục tiêu trong cuả hệ thống.
5. Quan điểm thứ năm.
Cho rằng hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải giá trị.
Theo quan điểm này, mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Tạp chí kinh tế và phương pháp toán của Viện toán kinh tế Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô (cũ) đã đăng nhiều bài ủng hộ quan điểm này. Họ tiếp cận tính hữu ích của sản phẩm bằng các hàm số và các đại lượng do tốc độ tiêu dùng của các dạng của cải. Yếu tố thời gian cũng được xét tới, so với những của cải mới làm ra thì những của cải lâu năm bị giảm tính hữu ích đi nhiều. Nhược điểm của cách tiếp cận này là không thể xác định được tính hữu ích ở dạng tổng thể gộp lớn. Loanh quanh thế nào rồi họ cũng đi đến thước đo giá trị, không ở dạng trực tiếp thì cũng ở dạng trung gian đo lường mức hữu ích của sản phẩm. Hầu hết các nhà kinh tế ở các nước đều công nhận rằng cùng lắm chỉ có thể đặt vấn đề về sự ưu việt của rạng của cải này hơn dạng của cải khác chứ không thể đo lường tính hữu ích của chúng bằng một đơn vị đo nào cả.
6. Quan điểm thứ sáu.
Cho rằng hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân.
Ưu điểm của quan điểm này là đã gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Nhược điểm của quan điểm này là chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở phương diện xác định và tính toán. Cụ thể là, “chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích” vì rằng muốn biết mức độtiết kiệm thì phải có hai phương án để so sánh. Điều đó chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch chọn các phương án sản xuất hoặc dự án đầu tư. Trong thống kê, mỗi đối tượng trong một phạm vi thời gian và không gian cụ thể, chỉ có một kết quả và một chi phí tương ứng, làm sao biết được mức độ tiết kiệm. Chố không rõ ràng ở đây là không phân biệt giữa kế hoạch và thống kê, giữa tương lai và quá khứ, khi đưa ra các yêu cầu “lớn nhất” “bé nhất” max và min trong khi chỉ có một trị số của chỉ tiêu được xét.
Từ các quan điểm trên ta có thể xem vai trò và chức năng của hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội trong phát triển sản xuất, thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Toàn bộ mức tăng trưởng kinh tế có thể chia làm hai phần: phần tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự thu hút thêm vào sản xuất các nguồn lực; phần tăng trưởng theo chiều sâu là phần tăng trưởng dựa vào nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội.
Để đảm bảo kết quả đúng đắn, khách quan, phân tích và dự đoán hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội cũng giống như các lĩnh vực khác, phải tuân theo những yêu cầu sau:
Một là, phân tích và dự đoán phải tiến hành trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế xã hội. Phân tích lý luận giúp ta hiểu tính chất xu hướng chung của hiện tượng trên cơ sở đó dùng số liêụ và phương pháp phân tích khẳng định tính chất cụ thể của nó. Thí dụ, trong lý luận kinh tế chính trị học, có quy luật năng suất lao động tăng lên không ngừng. Phân tích và dự đoán cụ thể về năng suất lao động tăng lên thực sự là hợp quy luật, ngược lại, năng suất lao động giảm xuống, trái với quy luật, phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao, số liệu không đúng hay thực tế khách quan của đối tượng nghiên cứ như vậy.
Hai là, phân tích và dự đoán thống kê hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội phải căn cứ vào tính tổng thể thống nhất của đối tượng được nghiên cứu và đặt các chỉ tiêu trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Phân tích và dự đoán phải sử dụng nhiều chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiện tượng. Nếu đặt cô lập chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác chúng ta không thể thấy thực chất của hiện tượng, vì sự tồn tại của hiện tượng không phải là kết quả tổng cộng đơn giản các mặt của nó mà là các mặt liên kết với nhau, mặt này làm cơ sở cho mặt kia, đồng thời chịu tác động lẫn nhau.
II. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh doanh.
1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói đến doanh nghiệp là người ta nhắc ngay tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là một quá trình bao gồm nhiều khâu trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp.
Trong bất kỳ quốc gia nào, cơ chế nào, thì kinh doanh đều phải luôn lấy hiệu quả làm mục tiêu phấn đấu. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Trong thực tế, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định.
Trong xã hội tư bản thì giai cấp tư bản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, việc phấn đấu tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản. Trong xã hội, xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất vẫn là nền sản xuất hàng hoá do đó phạm trù hiệu quả vẫn tồn tại. Do các tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân, tập thể và cá nhân, nên hiệu quả luôn phải đảm bảo kết hợp hài hoà các loại lợi ích này. Mục đích nâng cao hiệu quả không chỉ vì lợi nhuận mà còn đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội, tức là lợi nhuận tăng nhưng phải đảm bảo nâng cao đời sống người lao động.
Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định bằng cách so sánh giữa lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã hội.
Hiệu quả kinh tế là những lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí về lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có thể biểu diễn khái niệm bằng công thức tổng quát sau:
Trong đó: H là hiệu quả kinh tế của một quá trình kinh tế nào đó.
K là kết quả thu được từ nó.
C là toàn bộ chi phí để đạt được kết quả đó.
2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần phải phân biệt rõ hiệu quả và kết quả.
Có thể hiểu kết quả là chỉ tiêu kinh tế phản ánh lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều đạt tới một kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong kinh doanh thì kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân đo đong đếm như số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận... và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng, hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm... Nhưng đối với doanh nghiệp thì các kết quả đó không cho thấy được trình độ quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp mà phải thông qua khái niệm “hiệu quả”.
Trong công thức (1) ta thấy, trong khái niệm hiệu quả kinh doanh bao gồm tất cả kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai đơn vị hiện vật và giá trị. Nhưng khi đo bằng đơn vị hiện vật thì khó xác định do tính không đồng nhất về đơn vị đo lường nên người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá trị mà biểu hiện ra là tiền tệ.
Như vậy, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo quan trọng là “đồng tiền”.
Từ đó ta thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp- mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội.
Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phức tạp, vừa là một khái niệm cụ thể, vừa là một khái niệm trừu tượng khó đánh giá chính xác. Vì ngay ở khái niệm cho thấy hiệu quả kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Mà cả hai đại lượng này đều khó đánh giá chính xác.
3. Phân loại hiệu quả kinh tế.
Trong quản lý sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở những dạng thức khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế tạo nền tảng để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế, chỉ ra các nhân tố tác động và đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế một cách thích hợp.
3.1. Hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối.
+ Hiệu quả tương đối:
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, cụ thể là hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ lệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Hiệu quả tương đối càng lớn hơn 1 càng tốt. Đây là một đại lượng có tính chất so sánh cho nên hiệu quả tương đối là căn cứ để đánh gái mức độ hiệu quả của các phương án kinh doanh để lựa chọn phương án có lợi nhất về kinh tế.
+ Hiệu quả tuyệt đối:
Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án kinh doanh bằng cách xác định mối quan hệ giữa kết quả thu được của phương án đó với chi phí bỏ ra khi thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cụ thể. Trong trường hợp này, hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra.
3.2. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội.
+ Hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả tài chính là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là số lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được so với chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh được tính bằng quan hệ giữa doanh thu và chi phí.
Hiệu quả kinh doanh đựoc xác định trong mối quan hệ giữa chi phí