Ở Việt Nam hệ thống chính trị ra đời từ sau Cách mạng tháng 8 và sự hình thành Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Hệ thống chính trị hiện nay là kết quả của quá trình cách mạng, quá trình đấu tranh của nhân dân ta vì độc lập, tự do, lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của nó là xây dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ, không có áp bức bóc lột.
Hệ thống chính trị chúng ta nói ở đây, được sử dụng thay cách trình bày trước là hệ thống chuyên chính vô sản. Về bản chất, không có gì khác biệt, cùng mục đích Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ, nhưng cách hiểu được đổi mới, mở rộng. Hệ thống chính trị đó bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị này, vai trò của Đảng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Là nhân tố hợp thành hệ thống chính trị, nhưng hệ thống chính trị là sản phẩm, một trong những thành quả to lớn nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
10 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 14010 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP NHÓM THÁNG SỐ 1 – K36
MÔN: LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM
LỚP 3614 – NHÓM B1
Câu 2: Phân tích vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành.
Bài làm.
I. Cơ sở lí luận
1. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là cấu trúc của các quan hệ chính trị, trong đó các thiết chế chính trị - xã hội gồm Nhà nước, các đảng phái, các tổ chức xã hội tồn tại và hoạt động trong những mối liên hệ mật thiết.
Nó là cách thức tổ chức các quan hệ chính trị, là cơ chế thực hiện quyền lực chính trị phù hợp với tương quan lực lượng trong xã hội.
Ở Việt Nam hệ thống chính trị ra đời từ sau Cách mạng tháng 8 và sự hình thành Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Hệ thống chính trị hiện nay là kết quả của quá trình cách mạng, quá trình đấu tranh của nhân dân ta vì độc lập, tự do, lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của nó là xây dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ, không có áp bức bóc lột.
Hệ thống chính trị chúng ta nói ở đây, được sử dụng thay cách trình bày trước là hệ thống chuyên chính vô sản. Về bản chất, không có gì khác biệt, cùng mục đích Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ, nhưng cách hiểu được đổi mới, mở rộng. Hệ thống chính trị đó bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị này, vai trò của Đảng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Là nhân tố hợp thành hệ thống chính trị, nhưng hệ thống chính trị là sản phẩm, một trong những thành quả to lớn nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hệ thống chính trị Việt Nam hình thành từ khi có Đảng
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong lịch sử lập hiến
Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị luôn được thể hiện trong các bản hiến pháp.
Trong Hiến pháp năm 1946, mặc dù không có một điều khoản riêng quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị nhưng thông qua chế định chủ tịch nước và với vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và là vị chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đã được tổ chức thực hiện thắng lợi.
Hiến pháp 1959 đã thể hiện quyền lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị trong Lời nói đầu của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1980 đã thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng một cách cụ thể cả trong lời nói đầu và điều 4 của Hiến pháp: “ Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác- Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội: là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp.”(Điều 4 Hiến pháp 1980)
Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 có cách thể hiện ngắn gọn, chặt chẽ và đầy đủ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị so với các bản Hiến pháp trước đó. Điều 4 hiến pháp năm 1992 ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”(Điều 4 Hiến pháp 1992).
Như vậy, đến Hiến pháp 1992, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị đã được ghi nhận một cách rõ ràng, chính xác và đầy đủ, có sự kế thừa và phát triển trong nội dung vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị so với các bản Hiến pháp trước đó.
II. Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành
1. Nội dung lãnh đạo của Đảng
a. Về hình thức lãnh đạo của Đảng
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không những là một thực tế khách quan mà nó còn được thể chế hóa trong Điều 4, Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, không phải nhờ sự thể chế hóa thành quy phạm pháp luật Đảng ta mới giữ quyền lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng ta lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam từ những ngày thành lập đất nước cho đến nay..
Nói Đảng ta là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội về thực chất đó là sự lãnh đạo chính trị mang tính chất định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước có thể độc lập tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ viên chức, hoạt động đúng chức năng quản lý, điều hành những công cụ, biện pháp của Nhà nước.
“Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật “ (Điều lệ Đảng).
Nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra một cách cụ thể và các Đại hôi lần thứ VII, VIII, IX, X, đặc biệt là Đại hội lần thứ XI tiếp tục khẳng định và phát triển, bao gồm những mặt cơ bản sau đây:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự phát triển của toàn xã hội trong từng thời kỳ phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ trong 5 năm 2011- 2015: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
- Đảng vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội đảng lần thứ XI đề ra nguyên tắc kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đảng đề ra những quan điểm và chính sách về công tác cán bộ, phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú và những người ngoài Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn để bố trí vào làm việc trong cơ quan nhà nước và trong các tổ chức chính trị- xã hội. Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra quan điểm về công tác cán bộ là phải chú ý cán bộ trẻ và nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; phải trọng người có đức có tài, lấy hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu.
- Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua các đảng viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, qua đó tập hợp, giáo dục và động viên quần chúng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối chính sách của Đảng, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
- Đảng thực hiện công tác kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng đối với các đảng viên, các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc. Đồng thời, Đảng tiến hành tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hoàn thiện các đường lối, chính sách trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b. Về phương pháp lãnh đạo của Đảng
Thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công cụ, phương pháp và biện pháp cụ thể của mình.
Phương pháp để thực hiện quyền lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, xã hội là những phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào uy tín, năng lực của các đảng viên và của các tổ chức cơ sở Đảng.
2. Ý nghĩa của việc ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong hiến pháp
Việc ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp nhằm pháp luật hóa sự lãnh đạo của Đảng, là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp luật của Đảng cũng như mọi hoạt động Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc Hiếp pháp, là quy phạm pháp luật.
Thực hiện đường lối chính sách của Đảng , xây dựng và bảo vệ Đảng là nghĩa vụ pháp lý của các tổ chức Đảng, đảng viên, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi cá nhân.
Đảng lãnh đạo là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hoạt động bộ máy Nhà nước từ trung ương tới địa phương.
Việc ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là sự khẳng định uy tín của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, là quy luật tất yếu của công cuộc đổi mới, đảm bảo cho sự ổn định của hệ thống chính trị.
3. Những ưu nhược điểm trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng
Sự nghiệp lãnh đạo của Đảng hơn 80 năm qua, đặc biệt từ khi Đảng cầm quyền và gần đây qua hơn hai mươi năm đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng giao lưu, hội nhập, đã tạo ra sự đổi thay cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam:
Cách mạng Tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận người mất nước, sống lầm than trong đêm dài nô lệ thành người làm chủ sáng tạo ra những trang sử mới; đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh cách mạng suốt 30 năm đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc hơn một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của 10 năm sau chiến tranh, trong thế bị bao vây cấm vận, thù trong giặc ngoài, nhân dân ta đã giữ vững được độc lập, xây dựng được những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở cả nước.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua, tạo thế và lực mới cho đất nước ta chủ động và tích cực đi vào xu thế chung giao lưu, hội nhập quốc tế.
Những đổi thay, những chiến công và những kỳ tích đó khẳng định vị thế của Đảng ta trong lòng dân tộc. Thành tựu của cách mạng Việt Nam không chỉ thể hiện vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng mà còn khẳng định sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước ta. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua khẳng định không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Những năm vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có nhiều đổi mới, tạo tiền đề cho việc kiện toàn và phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị vẫn còn những khuyết điểm hạn chế; phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới, việc kiện toàn bộ máy của hệ thống chính trị và công tác tổ chức cán bộ trên một số phương diện còn yếu kém chưa được tăng cường đúng mức. Tình trạng Đảng bao biện, làm thay, can thiệp sâu vào công việc thuộc chức năng của Nhà nước vẫn còn tồn tại, chưa phát huy hết khả năng của các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống chính trị và quyền làm chủ của nhân dân.
4. Phương hướng đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới
Đại hội XI mới đây đã đề ra việc hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn hệ thống chính trị; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, nhất là ở cấp chiến lược; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, coi đây là điểm nhấn của nhiệm kỳ khóa XI.
Không thể duy trì phương thức lãnh đạo và cầm quyền từng phổ biến trong các nước XHCN mô hình cũ. Ở đó quốc hội hoạt động trên thực tế như một cơ quan cơ quan chấp hành, thực thi và thể chế hóa những quyết định của đảng được đưa ra từ trước, từ trên, từ bên ngoài quốc hội. Dù luật pháp chính thức có quy định thế nào thì hoạt động của quốc hội cũng không thoát khỏi tính hình thức. Với một quốc hội không có thực quyền thì không thể nói đến nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thực tế.
Cũng không thể máy móc áp dụng các thủ pháp cầm quyền của các chính đảng trong các nền chính trị dân chủ đa nguyên, đa đảng, xã hội dân sự phát triển như ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Lãnh đạo Đảng cần hạn chế việc ra các quyết định "cứng" trước khi nghe ý kiến của các đại biểu Quốc hội, hạn chế việc áp đặt các quyết định đó bằng cách đòi hỏi các đại biểu - đảng viên "chấp hành vô điều kiện" trước khi tạo điều kiện để họ dân chủ thảo luận và lắng nghe ý kiến của họ.
Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vấn đề có tính chất quyết định là phải tiếp tục thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề cấp bách hiện nay là phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Nhằm mục đích nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, vấn đề cực kỳ quan trọng là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.
Để giữ vững vai trò cầm quyền, trước hết Đảng phải hoạch định được đường lối cách mạng đúng đắn, bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân thật sự được hưởng hạnh phúc, tự do. Đảng phải xây dựng được một Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân, vì dân. Phải thật sự xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ, Đảng sống mãi trong lòng dân tộc.
III. Kết luận
Điều 4 trong Hiến pháp, hiện nay đang là mục tiêu chống phá, muốn triệt tiêu của một số người không thiện chí, thậm chí có những mưu đồ. Tại sao họ tự cho mình là trí tuệ mà không thừa nhận một thực tế đã được chứng minh? Đây không phải là một sự đòi hỏi hay áp đặt của Đảng, mà chính là sự thừa nhận của đại đa số nhân dân Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị không phải là ý muốn chủ quan của một ai, càng không phải là sự áp đặt, mà là thực tiễn chứng minh, nhân dân thừa nhận. Bởi vì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn luôn trung thành với mục tiêu lý tưởng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam có vị trí vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, không chỉ trong thực tế khách quan mà còn được thể chế hóa thành quy phạm pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.