Đói nghèo là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và phổ biến đối với mọi quốc gia, dân tộc. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trên hành tinh chúng ta vẫn còn hơn 1,5 tỷ người sống trong tình trạng đói nghèo. Đó là một trong những trở ngại trầm trọng nhất, một thách thức gay gắt đối với sự phát triển của thế giới hiện đại. Khắc phục hiện tượng này đang là mối lo toan thường xuyên của các quốc gia ở mọi khu vực khác nhau trên trái đất.
Đối với nước ta, xoá đói giảm nghèo, hướng tới xã hội phồn thịnh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là một vấn đề thời sự, bức xúc hiện nay. Xoá đói, giảm nghèo đặc biệt là xoá đói giảm nghèo về kinh tế ở nông thôn đối với các hộ nông dân, các vùng và vệt nghèo là tiền đề kinh tế tối cần thiết để giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã hội. Bởi vì, trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới của nước ta hiện nay, nông nghiệp nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự phát triển ổn định vững chắc của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với các ngành công nghiệp, dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc giải quyết đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và có dư thừa để xuất khẩu được coi là nền tảng quan trọng nhất cho sự phát triển ổn định nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài lương thực, thực phẩm nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản. Sự phát triển của công nghiệp chế biến, ở một mức độ rất lớn phụ thuộc vào quy mô và tốc độ sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, mặc dù sức mua còn thấp nhưng đây là thị trường tiềm năng rất lớn, rất quan trọng cho công nghiệp và dịch vụ. Tính phụ thuộc lẫn nhau này sẽ ngày càng tăng lên khi nhu cầu sản xuất và xuất khẩu nông sản với kỹ thuật cao tăng lên. Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu còn thấp nên xuất khẩu nông sản tiếp tục có vai trò quan trọng trong những năm tới. Đây sẽ là nguồn thu ngoại tệ, nguồn tích luỹ vốn và là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn sẽ đảm bảo cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thực hiện và phát triển sâu rộng trong phạm vi cả nước và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
82 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển cây cao su - Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững trên địa bàn tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và phổ biến đối với mọi quốc gia, dân tộc. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trên hành tinh chúng ta vẫn còn hơn 1,5 tỷ người sống trong tình trạng đói nghèo. Đó là một trong những trở ngại trầm trọng nhất, một thách thức gay gắt đối với sự phát triển của thế giới hiện đại. Khắc phục hiện tượng này đang là mối lo toan thường xuyên của các quốc gia ở mọi khu vực khác nhau trên trái đất.
Đối với nước ta, xoá đói giảm nghèo, hướng tới xã hội phồn thịnh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là một vấn đề thời sự, bức xúc hiện nay. Xoá đói, giảm nghèo đặc biệt là xoá đói giảm nghèo về kinh tế ở nông thôn đối với các hộ nông dân, các vùng và vệt nghèo là tiền đề kinh tế tối cần thiết để giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã hội. Bởi vì, trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới của nước ta hiện nay, nông nghiệp nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự phát triển ổn định vững chắc của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với các ngành công nghiệp, dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc giải quyết đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và có dư thừa để xuất khẩu được coi là nền tảng quan trọng nhất cho sự phát triển ổn định nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài lương thực, thực phẩm nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản. Sự phát triển của công nghiệp chế biến, ở một mức độ rất lớn phụ thuộc vào quy mô và tốc độ sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, mặc dù sức mua còn thấp nhưng đây là thị trường tiềm năng rất lớn, rất quan trọng cho công nghiệp và dịch vụ. Tính phụ thuộc lẫn nhau này sẽ ngày càng tăng lên khi nhu cầu sản xuất và xuất khẩu nông sản với kỹ thuật cao tăng lên. Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu còn thấp nên xuất khẩu nông sản tiếp tục có vai trò quan trọng trong những năm tới. Đây sẽ là nguồn thu ngoại tệ, nguồn tích luỹ vốn và là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn sẽ đảm bảo cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thực hiện và phát triển sâu rộng trong phạm vi cả nước và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Có thể nói không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo về kinh tế đối với nông dân, nông thôn thì sẽ không thể chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân hóa giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hóa giai cấp, với hậu quả là sự bần cùng hóa. Và do vậy sẽ đe dọa ổn định chính trị và xã hội, làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Không giải quyết thành công các chương trình xóa đói, giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững cũng sẽ không thể thực hiện được. Không tập trung mọi nỗ lực, khả năng và điều kiện để xóa đói, giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm đưa nước ta tới trình độ phát triển tương xứng với quốc tế và khu vực, thoát khỏi nguy cơ lạc hậu, tụt hậu.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tự nó đã nói lên tính tất yếu của xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu trong cộng đồng dân cư nước ta. Đảng ta đặc biệt quan tâm tới xóa đói, giảm nghèo không chỉ đối với cộng đồng dân cư nông dân, nông thôn và trong khu vực kinh tế nông nghiệp, mà còn đối với cộng đồng dân cư đô thị và mọi vùng, mọi miền trên cả nước, nhất là đối với các vùng sâu, vùng xa, các cơ sở cách mạng, các đối tượng ưu tiên xã hội.
Do điều kiện lịch sử để lại, sự phát triển của các dân tộc ở Việt Nam không đồng đều, mức sống ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi (như là một số tỉnh miền núi phía Bắc) rất thấp, đói nghèo và lạc hậu hiện còn là thách thức lớn đối với quá trình phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế của khu vực này lại rất cần thiết và có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Các tỉnh vùng núi phía Bắc có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn vì ở đây có tài nguyên rừng phong phú, đa dạng, lại giàu tài nguyên khoáng sản nhất nước ta; là vùng có thể phát triển đa dạng các loại cây trồng như: cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, các cây dược liệu quý hiếm có giá trị kinh tế cao. Mặt khác, đây cũng là nơi có các đồng cỏ tương đối rộng( chiếm 60% diện tích đồng cỏ của cả nước), vì vậy có thể phát triển chăn nuôi gia súc và đại gia súc. Địa hình nông thôn vùng núi phía Bắc có độ dốc cao, đặc biệt là ở vùng cao, ở đây là đầu nguồn thượng lưu của các con sông lớn ở miền Bắc, lượng mưa tương đối lớn, lại tập trung cao vào mùa mưa…Do đó, nông thôn vùng núi phía Bắc có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước, “ là mái nhà xanh”, “là lá phổi xanh”, là điều kiện vô cùng quan trọng trong sự phát triển nền nông nghiệp bền vững của quốc gia, không những đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng hàng hóa trong nước mà còn đáp ứng phần quan trọng cho nhu cầu xuất khẩu. Mặt khác, nông thôn vùng núi phía Bắc là nơi cư trú của đa số các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng, phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống độc đáo…Vì vậy, nền kinh tế vùng được phát triển thì không những bảo đảm được đời sống kinh tế mà còn giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp, đặc sắc của các dân tộc, hạn chế các phong tục tập quán lạc hậu, kết hợp đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc với nền văn hóa tiên tiến của thế giới.
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc có nhiều tiềm năng, lợi thế về đất đai, khí hậu; nhân dân các dân tộc đoàn kết, cần cù, thông minh, sáng tạo trong công tác và sản xuất. Sau gần 20 năm đổi mới, cùng với sự phát triển của cả nước, thế và lực của tỉnh đã lớn mạnh hơn; chính trị - xã hội được ổn định; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt tốc độ khá nhưng chất lượng chưa cao, chưa vững chắc; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng tốc độ chuyển dịch chưa cao; chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng; ở vùng sâu, vùng xa phong tục sản xuất thuần nông du canh du cư vẫn chưa được xóa bỏ do đó kết quả xoá đói giảm nghèo mặc dù có nhiều tiến bộ, song chưa thật vững chắc; đời sống của một bộ phận đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới còn gặp nhiều khó khăn; giải quyết việc làm đối với người lao động ở nông thôn còn là vấn đề bức xúc. Bởi vậy, trong những năm tới để góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới nói riêng và cho đồng bào toàn tỉnh nói chung, tỉnh cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là trong nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường. Muốn vậy, tỉnh cần đẩy mạnh phát triển, đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi; chuyển sang trồng những loại cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản có giá trị kinh tế cao, phát huy được thế mạnh của tỉnh. Trong những năm vừa qua, tỉnh đã đẩy mạnh phát triển các loại cây chè, cây mía, cây cà phê, cây ăn quả…Hiện nay, tỉnh đang chủ trương phát triển cây cao su để góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc Sơn La. Đây có phải là một hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý và bền vững hay không?
II- Nội dung đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ tính đúng đắn của chủ trương phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La, khẳng định đây là hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng bền vững, góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La.
Để thực hiện mục đích trên, đề tài đã nghiên cứu những vấn đề sau:
- Những lý luận chung về vấn đề đói nghèo, vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau giữa chúng.
- Tình hình phát triển cây cao su ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.
- Tình hình đói nghèo và thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh Sơn La, những nguyên nhân của thực trạng trên.
- Những thuận lợi, khó khăn, những hiệu quả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội khi tỉnh Sơn La phát triển cây cao su.
- Tình hình phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh trong thời gian vừa qua.
- Các giải pháp để duy trì chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bền vững cho tỉnh.
III- Đóng góp của đề tài
- Đề tài đã cố gắng trình bày có hệ thống, góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng, sự tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau giữa vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và vấn đề xóa đói, giảm nghèo.
- Cái mới và đóng góp của đề tài là đã chỉ ra những thuận lợi, khó khăn cũng như những hiệu quả về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội khi phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La. Từ đó, đề tài khẳng định việc phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh là một hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng phù hợp, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng gần biên giới. Như vậy, đề tài đã góp phần làm sáng rõ tính đúng đắn trong những chủ trương, chính sách phát triển cây cao su của Nhà nước cũng như của Địa phương; và có thể dùng làm tài liệu để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phát động, cổ vũ phong trào trồng cây cao su của Địa phương.
- Đề tài đã đề xuất các giải pháp đề duy trì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững ở tỉnh Sơn La.
IV- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đánh giá thực chứng tình hình đói nghèo và nguyên nhân trên địa bàn tỉnh.
- Phương pháp hệ thống cơ sở khoa học về cao su; thu thập thông tin liên quan đến phát triển cao su trong toàn quốc và khu vực miền núi phía Bắc.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn về phát triển cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La.
V- Bố cục của đề tài
Đề tài gồm các phần:
- Phần thứ nhất: đặt vấn đề
- Phần thứ hai: mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giảm nghèo
- Phần thứ ba: phát triển cây cao su trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc
- Phần thứ tư: Phát triển cây cao su là hướng giảm nghèo bền vững ở tỉnh Sơn La.
- Phần thứ năm: các giải pháp để duy trì chuyển dịch cơ cấu cây trồng bền vững trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Phần thứ sáu: kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Phần thứ hai
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ GIẢM NGHÈO
I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
1. Khái niệm, phương pháp xác định đói nghèo
1.1- Khái niệm đói nghèo
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế nhằm từng bước xóa bỏ đói nghèo và nâng cao phúc lợi của người dân. Tuy nhiên, rất khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về thế nào là đói nghèo. Rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã cố gắng đưa ra các khái niệm khác nhau về đói nghèo. Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Liên Hiệp Quốc đều đã mở rộng khái niệm đói nghèo bao gồm những khía cạnh cơ bản như sau:
- Trước tiên và trước hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
- Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay một cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sức khỏe.
- Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo.
1.2- Phương pháp xác định đói nghèo
Để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo cần lựa chọn một ngưỡng nghèo ( hay còn gọi là chuẩn nghèo). Ngưỡng nghèo là mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình nằm dưới mức đó sẽ bị coi là nghèo. Có hai cách chính để xác định ngưỡng nghèo:
- Ngưỡng nghèo tuyệt đối
- Ngưỡng nghèo tương đối
Trên bình diện quốc tế, để tiện so sánh mức độ đói nghèo giữa các nước, Ngân hàng thế giới đã tính toán ngưỡng nghèo tuyệt đối quốc tế cho các nước thu nhập thấp là 1$/ngày và cho các nước thu nhập trung bình thấp là 2$/ngày ( tính theo ngang giá sức mua).
Ở Việt Nam hiện tại chưa có ngưỡng nghèo thống nhất. Trong thực tế, việc phân tích, đánh giá đói nghèo vẫn sử dụng một trong hai ngưỡng nghèo tuyệt đối:
Thứ nhất, Ngưỡng nghèo của Tổng cục thống kê
Thứ hai, ngưỡng nghèo của Bộ lao động, thương binh và xã hội.
Ngày 8/7/2005 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 170/2005/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010. Theo quy định mới sẽ có hai ngưỡng nghèo là:
- Ngưỡng nghèo dành cho khu vực nông thôn, áp dụng cho các hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống.
- Ngưỡng nghèo dành cho khu vực thành thị, áp dụng cho các hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống.
2. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
- Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới.
Tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế), tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là trên 37% và năm 2002 tỷ lệ này vào khoảng 28,9%.
- Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cộng với điều kiện nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn) khiến cho thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng. Do đó, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho ta thấy tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu). Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn cũng còn rất cao.
- Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn, các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao.
Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn (do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người
- Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn
Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ...), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn.
- Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người
Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
3- Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
- Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng do đó trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học - công nghệ, giống mới....
- Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. Bên cạnh đó, do trình độ học vấn thấp nên đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư...
- Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao và điều này đồng nghĩa với việc nguồn lực về lao động rất thiếu nên dẫn đến thiếu thu nhập.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác
Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khoẻ...) và tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa.
- Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy, phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khoá khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khoá khuyến nông về trồng trọt.
- Bệnh tật và sức khoẻ yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng
Vấn đề bệnh tật và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến càng ít có cơ hội thoát nghèo. Trong khi đó, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...) của người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.
- Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do hoá thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước...) đến nghèo đói
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo.
+ Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp; chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước...) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.
+ Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi.
Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghi