Sau nhiều năm thực hiện chính sách đổi mới đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và công nghiệp, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ những suy thoái lớn về môi trường cảnh quan và đạo đức văn hoá vì đất nước ta vốn có xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần nông. Một nguy cơ nữa là tình trạng mất dần đất canh tác nông nghiệp dẫn đến quá trình ly nông, ly hương và bần cùng hoá ở nông thôn đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn ra thế giới, cách đây 30-40 năm tại các nước phát triển cũng đã xảy ra tình trạng tương tự. Chính phủ các nước đã triển khai rất nhiều biện pháp để ngăn chặn vấn đề này, trong đó có một hướng đã chứng minh được qua vài chục năm là rất có hiệu quả trong việc làm tăng thu nhập của dân cư nông nghiệp và thay đổi bộ mặt nông thôn. Đó chính là việc chính phủ hướng sự quan tâm của cộng đồng xã hội vào việc phát triển du lịch nông thôn. Mô hình du lịch nông thôn rất nên được tiến hành nghiên cứu ở nước ta với việc xây dựng các chính sách vĩ mô và ban hành các luật định cụ thể trong việc thực hiện như một sự hỗ trợ tích cực đối với sự phát triển bộ mặt nông thôn và gia tăng việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp nhất là trong quá trình phát triển hiện nay của đất nước ta, khi tư liệu sản xuất quan trọng trong nông nghiệp là đất đai đang dần bị thu hẹp, nhường chỗ cho các dự án công nghiệp, dịch vụ thì việc phát triển du lịch nông thôn tại những địa phương có tiềm năng du lịch cần được quan tâm nhiều hơn nữa để góp phần giải quyết việc làm, tạo nguồn thu nhập từ dịch vụ cho nông dân.
Bước vào thời kì hội nhập, nông nghiệp và nông thôn Thái Bình có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội tại địa phương. Xuất phát từ việc khảo sát thực tế, nhận thấy Thái Bình là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn nhưng du lịch nông thôn ở đây lại chưa phát huy được hết những tiềm năng đó nên tôi chọn đề tài “Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình” là đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
64 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3708 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn 6
1.1. Khái quát chung về du lịch nông thôn 6
1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam 8
1.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam 13
1.4. Giới thiệu một số tuor du lịch nông thôn đang được khai thác trên thị trường Việt Nam 16
1.5. Một số tác động và ảnh hưởng của du lịch nông thôn đến đời sống kinh tế - xã hội của cư dân địa phương 18
Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 21
2.1. Điều kiện chung để phát triển du lịch ở Thái Bình 21
2.2. Thế mạnh phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 23
2.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 48
Chương III. Định hướng, giải pháp và kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình 53
3.1. Định hướng phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình……………………….53
3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch nông thôn tại Thái Bình 55
3.4. Các kiến nghị để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình 60
KẾT LUẬN 63
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau nhiều năm thực hiện chính sách đổi mới đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và công nghiệp, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ những suy thoái lớn về môi trường cảnh quan và đạo đức văn hoá vì đất nước ta vốn có xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần nông. Một nguy cơ nữa là tình trạng mất dần đất canh tác nông nghiệp dẫn đến quá trình ly nông, ly hương và bần cùng hoá ở nông thôn đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn ra thế giới, cách đây 30-40 năm tại các nước phát triển cũng đã xảy ra tình trạng tương tự. Chính phủ các nước đã triển khai rất nhiều biện pháp để ngăn chặn vấn đề này, trong đó có một hướng đã chứng minh được qua vài chục năm là rất có hiệu quả trong việc làm tăng thu nhập của dân cư nông nghiệp và thay đổi bộ mặt nông thôn. Đó chính là việc chính phủ hướng sự quan tâm của cộng đồng xã hội vào việc phát triển du lịch nông thôn. Mô hình du lịch nông thôn rất nên được tiến hành nghiên cứu ở nước ta với việc xây dựng các chính sách vĩ mô và ban hành các luật định cụ thể trong việc thực hiện như một sự hỗ trợ tích cực đối với sự phát triển bộ mặt nông thôn và gia tăng việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp nhất là trong quá trình phát triển hiện nay của đất nước ta, khi tư liệu sản xuất quan trọng trong nông nghiệp là đất đai đang dần bị thu hẹp, nhường chỗ cho các dự án công nghiệp, dịch vụ thì việc phát triển du lịch nông thôn tại những địa phương có tiềm năng du lịch cần được quan tâm nhiều hơn nữa để góp phần giải quyết việc làm, tạo nguồn thu nhập từ dịch vụ cho nông dân.
Bước vào thời kì hội nhập, nông nghiệp và nông thôn Thái Bình có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội tại địa phương. Xuất phát từ việc khảo sát thực tế, nhận thấy Thái Bình là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông thôn nhưng du lịch nông thôn ở đây lại chưa phát huy được hết những tiềm năng đó nên tôi chọn đề tài “Phát triển du lịch nông thôn ở Thái Bình” là đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu tất cả các tiềm năng phát triển du lịch nông thôn của các làng quê ở tỉnh Thái Bình từ đó đề xuất giải pháp phát triển du lịch nông thôn Thái Bình.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm nền tảng.
Phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm: sử dụng các dữ kiện thông tin thứ cấp đã được công bố để phân tích, so sánh, khái quát…, thực hiện các phán đoán suy luận.
4. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp cơ sở lý luận về du lịch nông thôn.
Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình.
Đưa ra một số giải pháp để phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình.
5. Kết cấu
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn
Chương II. Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
Chương III. Giải pháp phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Thái Bình
Sau đây là nội dung cụ thể của từng chương.
Chương I. Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn
1.1. Khái quát chung về du lịch nông thôn
1.1.1.Sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn
Khái niệm du lịch nông thôn đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành đường sắt ở Châu Âu. Tuy nhiên, mãi đến những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới được xem là một loại hình du lịch và được phổ biến ở hầu hết các quốc gia ở Châu Âu như Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển… Lúc bấy giờ khái niệm du lịch nông thôn được quan niệm tương đồng với các loại hình du lịch nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở nông thôn… Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia đang phát triển và quốc gia phát triển là ở chỗ: Tại các quốc gia đang phát triển, người ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hoá thu nhập từ nông nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc, văn hoá truyền thống và bảo vệ môi trường. Vì vậy du lịch nông thôn ở các nước này phát triển theo chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại.
Do những điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, nên hình thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh thổ. Chẳng hạn, ở Ô-xtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu tại các trang trại lớn; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn; ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại nhỏ; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm sở thích của cộng đồng; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng. Phát triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường; giảm đói nghèo thông qua phát triển kinh tế nông thôn, phát triển ngành, nghề; giúp phát triển du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và góp phần tiêu thụ các sản phẩm địa phương.
1.1.2. Đặc điểm của du lịch nông thôn
Du lịch nông thôn có các đặc điểm căn bản sau:
Nền tảng của du lịch nông thôn là nông nghiệp.
Mô hình du lịch nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và không gian cho phù hợp với tình hình.
Du lịch nông thôn không cạnh tranh với các loại hình du lịch khác, sự phát triển của các ngành khác là tiền đề cho du lịch phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trong ngành thì rất lớn.
Dễ phát sinh những hình thái biến tấu của du lịch nông thôn.
Có tính liên ngành và liên vùng cao.
1.1.3. Các nguyên tắc phát triển du lịch nông thôn
Từ những đặc điểm trên, phát triển du lịch nông thôn phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
Bảo đảm tính công bằng cho các chủ thể tham gia
Đem lại lợi ích cho người dân địa phương và phát huy nội lực ở từng địa phương.
Bảo tồn, phát huy vốn di sản và bảo vệ môi trường.
Luôn đổi mới và tạo sự khác biệt
Tăng cường mối liên kết theo chiều dọc và chiều ngang để làm phong phú thêm sản phẩm.
Giữ gìn bản sắc, xây dựng hình ảnh đẹp trong lòng du khách.
1.1.4. Đặc trưng của du lịch nông thôn
Điều kiện tự nhiên: Các vùng nông thôn còn đậm đà hồn quê, là những nơi có không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng. Du khách đến với các vùng nông thôn nước ta vì vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên và văn hoá nguồn cội không lai tạp. Vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên hoặc vẻ đẹp văn hoá mà bị suy giảm thì khó thu hút được họ.
Điều kiện về môi trường: Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về việc hạn chế hoặc tuyệt đối không dùng các loại thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp đối với cây trồng cũng như chất phụ gia trong thức ăn dành cho gia súc, gia cầm.
Điều kiện con người: Người dân ở các làng quê hiền lành, cởi mở và hiếu khách.
Điều kiện an ninh: Khách du lịch đặc biệt coi trọng vấn đề an toàn trong quá trình du lịch. Vì vậy những làng quê họ lựa chọn làm điểm đến du lịch của mình phải là vùng có tình hình an ninh trật tự tốt.
Các yếu tố khác: Đến làng quê, du khách không chỉ hoà mình vào cuộc sống của người nông dân mà còn có thể tham gia các lễ hội và tham quan các di tích lịch sử của địa phương vừa là nghỉ dưỡng vừa là khám phá.
1.1.5. Các hình thức du lịch nông thôn
5 hình thức du lịch nông thôn:
Du lịch tự nhiên, mang tính giải trí.
Du lịch văn hoá, quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa phương.
Du lịch sinh thái quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cũng như phúc lợi, giá trị văn hoá của người dân địa phương.
Du lịch làng xã, trong đó du khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng được hưởng các lợi ích kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại.
Du lịch nông nghiệp, trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống, không phá hoại, hay làm giảm năng suất cây trồng của địa phương.
1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam
Ở Việt Nam, tính đến năm 2009, có 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 90% diện tích lãnh thổ Việt Nam. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Người dân Việt Nam dù sống khắp nơi trên thế giới vẫn giữ được nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam.
Nông nghiệp là hoạt động chính của kinh tế nông thôn, chiếm 68% tổng giá trị sản phẩm ở nông thôn. Nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất gạo hiện nay đang đóng góp nhiều cho xuất khẩu. Tuy nhiên thu nhập bình quân của người nông dân vẫn còn rất thấp. Các ngành dịch vụ tương đối yếu ở nông thôn do khó khăn trong vận chuyển và nhu cầu của địa phương thấp.
Làng quê Việt Nam ngày nay tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhiều làng vẫn giữ được những nét truyền thống lâu đời. Nhắc đến làng quê Bắc Bộ là ta nhớ ngay đến hình ảnh của luỹ tre, đình làng, cây đa, cổng làng. Những hình ảnh đó đã in đậm trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam.
Bất kỳ một làng quê nào trên đất nước Việt Nam cũng có một ngôi đình. Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi thay đổi trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc đình làng mang đậm dấu ấn văn hoá, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống. Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung là đình chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hoá. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh hưởng văn hoá Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa; còn đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam, là nơi để thờ Thành Hoàng làng và những người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi cân bằng phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng. Vào những ngày lễ, tết, dân làng lại thắp hương tế lễ cầu mong Thành Hoàng làng và trời đất cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Đây là lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Tuy đình là của dân làng nhưng thần không hẳn là người của làng. Vì người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thuỷ, nên thờ và tôn kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần nước (thần Tản Viên)…, ở Phù Ninh (Phú Thọ) thờ thần Đá Trắng, vùng đồng bằng thờ thần cá, thần rắn… Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối tạo thành một nền văn hoá hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin, một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng xã cộng đồng Việt Nam. Có lẽ những đình cổ nhất nước ta vẫn là những ngôi đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như: đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh. Riêng đình Lỗ Hạnh, nguyên xưa là chữ Nhất nhưng qua các đời sau tu bổ đã thêm hậu cung nên đình thành chữ Đinh. Theo quan niệm kiến trúc, đình là một công trình kiến trúc công cộng, rộng mở chào đón bất kỳ người con nào của đất Việt. Với ý nghĩa như thế, đình làng Việt Nam chính là nơi không phân biệt giàu sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ nhất văn hoá hiện thực của đời sống nhân dân. Mái cong của đình không giống bất cứ mái cong nào của vùng Đông Nam Á, kể cả Nhật, Trung Hoa và Thái Lan, vì góc đao của đình uốn cong và vút cao do một hệ thống cấu trúc đặc biệt có tên gọi riêng la tâu đao lá mái, không do vôi vữa đắp thành. Nhìn lại các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Cao Thương (Hà Bắc), Phù Lão, Chu Nguyên, đình Hương Lộc, Phùng Thượng, đình Thổ Tang, Ngọc Canh để thấy rằng, đình là một khối điêu khắc trong không gian, đầy chi tiết tinh tế, nhưng cũng đầy tính khoa học kiến trúc. Nói về đường nét, đình là nơi hội tụ những mô típ trang trí tuyệt hảo, gồm nhiều xu hướng: hiện thực, cách điệu, cách điệu và đồ hoạ. Sân đình là nơi tổ chức hội làng, trong hội làng dân làng thường diễn Hèm. Theo từ điển Tiếng Việt, Hèm có nghĩa là trò diễn lại sinh hoạt sự tích của vị thần thờ trong làng, những điều kiêng kỵ của thần… Việc Việt hoá, dân dã hoá vị “Thành Hoàng” bằng cách triều đình “tấn phong” cho các thần linh của thôn xã chức Thành Hoàng làng đã góp phần thúc đẩy ngôi đình dần chiếm địa vị trung tâm sinh hoạt trong xã hội nông thôn Việt Nam để tới nay đình được coi là biểu tượng quê hương. Nhìn chung văn hoá đình Việt Nam có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã hội biết tổng hợp dung hoà mọi nền văn hoá khác thành một nét văn hoá riêng nhằm phục vụ an ninh cho dân tộc mình, trong đó yếu tố chủ yếu vẫn là thờ cúng những người có công với xã, người anh hùng dựng lập nước và bảo vệ đất nước.
Từ bao đời nay, người Việt cũng coi cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là "cây đa, cây đề", biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú.
Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi khi là cả một vòng đời người.
Trǎm nǎm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ thường ở đầu làng, cuối làng, giữa làng và ở bên cạnh các di tích. Cuộc sống sinh hoạt của làng diễn ra sôi động xung quanh gốc đa. Với người dân quê, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không có sự phân biệt ngôi thứ. Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái trong làng. Không chỉ có vậy, cây đa làng Việt còn là biểu tượng tâm linh của con người. Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều vị trí khác nhau nhưng hầu như nó không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Tục ngữ có câu:
"Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề"
Hay:
"Cây thị có ma, cây đa có thần"
Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn, con người khi bước đến di tích cũng cảm thấy được thư thái hòa đồng hơn với thiên nhiên. Cây đa được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường được dân chúng thắp hương chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu cho những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân làng.
Như vậy, cây đa luôn là biểu tượng đẹp với hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực của biểu tượng: vừa hiện hữu, vừa tiềm ẩn, huyền bí, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa mang đậm yếu tố tâm linh. Phải chǎng chính sự kết hợp này đã tạo nên biểu tượng cây đa có sức sống bền lâu trong vǎn học dân gian, vǎn thơ bác học và trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Ở những làng quê Việt Nam, đặc trưng với những cây đa, bến nước, con đò, hay với những cánh cổng làng đơn sơ cổ kính. Mỗi cái cổng làng đều có một nét văn hoá riêng, tùy theo đặc điểm làng đó. Có làng giàu, có làng khoa bảng, có làng nghề... tất cả những cái hay cái đẹp đều được các vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng. Những cánh cổng ấy thường được gọi với cái tên làng, và tên làng được lấy theo đặc trưng của làng đó, hay một sự kiện, một di tích lịch sử …. Ví dụ: làng lụa Vạn Phúc. Ở mỗi làng thường chỉ để một hoặc hai lối ra vào và cổng làng thường được dựng ở đây để làm ranh giới giữa các làng. Đối với những người xa quê đã lâu, khi về quê hương, còn cách khoảng 2, 3km là đã có thể nhìn thấy vòm cây đa và biết rằng mình đã sắp sửa về đến làng. Nhưng về tới gần hơn, qua cổng làng mới chính thức bước vào mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình, và coi như đã về tới nhà mình vì người trong làng thường đối xử với nhau như trong một gia đình. Cổng làng thường thấy nhiều ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình…, chủ yếu là những vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã. Đối với mỗi người dân Việt Nam, cổng làng đã trở nên rất thân thuộc. Cổng làng thường là nơi hẹn hò của các đôi trai gái. Và với mỗi người con gái khi về làm dâu, bước qua cổng làng về nhà chồng, trở thành một thành viên trong cộng đồng dân cư của làng.Với niềm tin, suy nghĩ giữ làng tức là giữ nước, cổng làng là nơi đã chứng kiến biết bao thế hệ thanh niên đã không tiếc hi sinh than mình để gìn giữ cánh cổng làng. Cánh cổng làng là bộ mặt những làng quê Bắc bộ ngày nay đã biến đổi nhiều trước làn sóng đô thị hóa ồ ạt. Những cánh cổng làng có vẻ như không còn phù hợp với những con đường bê tông mở rộng. Nhưng trong một góc tâm thức nào đó của mỗi người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một biểu tượng thân thuộc và là đặc trưng của mỗi làng quê, làng nghề của miền đồng bằng bắc bộ. Hơn nữa, cổng làng là một trong những biểu tượng văn hoá, bản sắc văn hoá của làng quê ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam.
Các làng xã ở vùng đồng bằng Nam Bộ khác hẳn so với các làng xã ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam Bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây:
Làng không có lũy tre như là sự phân cách giữa làng này và làng khác nữa.
Làng không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi, có làng được lập một cách nhanh chóng, nhưng cũng có làng tan rã nhanh chóng.
Giao thương buôn bán phát triển không còn bị gò bó ở tình trạng tự cung tự cấp.
Tính tình người dân Nam bộ cũng phóng khoáng hơn, dễ chấp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài.
Chính vì những đặc điểm đó mà trong thời kỳ kinh tế thị trường, người dân ở các tỉnh miền Nam nhanh chóng thích nghi và phát triển kinh tế nhanh hơn các tỉnh miền Bắc.
1.3. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, khái niệm du lịch nông thôn vẫn chưa được nhắc đến trong các văn bản pháp lý mặc dù nước ta có tiềm năng lớn để phát triển du lịch nông thôn:
Với phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm đồi, sông suối, biển đảo, hang động, hệ động, thực vật phong phú, vùng nông thôn với những làng quê cổ kính vùng Bắc Bộ, những nét văn hoá truyền thống đặc sắc, những vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn hoá tập tục của người xưa, những cánh đồng bát ngát, phì nhiêu ở Nam Bộ…là những điều kiện để nước ta phát triển du lịch nông thôn.
Người Việt Nam nhân hậu, thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình và giàu lòng mến khách cùng với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh, nhạy bén và giàu lòng quả cảm đã làm nên những nét văn hoá truyền thống đặc sắc Việt Nam từ chính tâm hồn mộc mạc ấy của mình.
Một tiềm lực đáng kể ở nhiều vùng nông thôn là t