Phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến của OnePay cho các doanh nghiệp du lịch

Thanh toán trực tuyến xuất hiện cùng với sựphát triển của internet và thương mại điện tửlà hình thức phát triển mới của thanh toán điện tửtruyền thống. Ngày nay khi TMĐT đang phát triển mạnh mẽtrên thếgiới, các phương thức thanh toán mới ra đời đã đem lại sựthuận tiện, nhanh chóng và tiết kiệm cho cảcác doanh nghiệp và người tiêu dùng. Bên cạnh các phương thức TTĐT truyền thống như chuyển khoản, ATM, POS hay thư đảm bảo còn có các hình thức khác nhưthanh toán mobile, internet đang ngày càng phát triển và phổbiến ởcác nước trên thếgiới. Trung Quốc một quốc gia láng giềng có đặc điểm gần giống Việt Nam nhưng TMĐT của họnói chung và TTTT nói riêng đang đi trước chúng ta đến 5 năm với tốc độphát triển bùng nổ, trung bình hàng năm tăng 181%. Chỉtính riêng mạng thanh toán Alipay của Trung Quốc, đến thời điểm đầu tháng 1 năm 2009, quy mô sốngười sửdụng TTTT đã vượt qua con số100 triệu người. Trong khi đó tại Việt Nam, TMĐT mới chỉthực sựphát triển trong vòng 3 – 4 năm trởlại đây, bắt đầu sơkhai với các hình thức quảng bá sản phẩm trên website, tạo giỏhàng và hỗ trợkhách hàng trực tuyến. Còn một khâu quan trọng trong TMĐT là thanh toán vẫn chỉlà thanh toán truyền thống, giao hàng và nhận tiền tại nhà hoặc văn minh hơn là chuyển khoản qua ngân hàng, thanh toán qua bưu điện. TTTT của Việt Nam chỉmới thực sựbắt đầu những bước đi đầu tiên từcuối năm 2006, đầu năm 2007 khi mà một loạt các doanh nghiệp cung cấp dịch vụcổng TTĐT Payment Gateway ra đời nhưVietpay, PayNet, Mobivi, Fibo Tuy nhiên sự xuất hiện ồ ạt của các doanh nghiệp cũng không nhanh chóng đưa TTTT phát triển ởViệt Nam. Các doanh nghiệp không tránh khỏi thực trạng “có mà nhưkhông”, hoạt động cầm chừng và gần nhưkhông phát triển được. Chỉmột vài doanh nghiệp có hướng đi đúng đắn nhưPayNet, VTC hay VASC mới có thểtiếp tục phát triển và đạt được những thành công nhất định. Và công ty cổphần thương mại và dịch vụ trực tuyến OnePay là một doanh nghiệp nhưvậy. OnePay nhận định đểcó thểphát triển thành công và hội nhập quốc tếthì phải chuyên nghiệp ngay từ đầu.

pdf57 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2911 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến của OnePay cho các doanh nghiệp du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1   CHƯƠNG I - TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Thanh toán trực tuyến xuất hiện cùng với sự phát triển của internet và thương mại điện tử là hình thức phát triển mới của thanh toán điện tử truyền thống. Ngày nay khi TMĐT đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, các phương thức thanh toán mới ra đời đã đem lại sự thuận tiện, nhanh chóng và tiết kiệm cho cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Bên cạnh các phương thức TTĐT truyền thống như chuyển khoản, ATM, POS hay thư đảm bảo còn có các hình thức khác như thanh toán mobile, internet đang ngày càng phát triển và phổ biến ở các nước trên thế giới. Trung Quốc một quốc gia láng giềng có đặc điểm gần giống Việt Nam nhưng TMĐT của họ nói chung và TTTT nói riêng đang đi trước chúng ta đến 5 năm với tốc độ phát triển bùng nổ, trung bình hàng năm tăng 181%. Chỉ tính riêng mạng thanh toán Alipay của Trung Quốc, đến thời điểm đầu tháng 1 năm 2009, quy mô số người sử dụng TTTT đã vượt qua con số 100 triệu người. Trong khi đó tại Việt Nam, TMĐT mới chỉ thực sự phát triển trong vòng 3 – 4 năm trở lại đây, bắt đầu sơ khai với các hình thức quảng bá sản phẩm trên website, tạo giỏ hàng và hỗ trợ khách hàng trực tuyến. Còn một khâu quan trọng trong TMĐT là thanh toán vẫn chỉ là thanh toán truyền thống, giao hàng và nhận tiền tại nhà hoặc văn minh hơn là chuyển khoản qua ngân hàng, thanh toán qua bưu điện. TTTT của Việt Nam chỉ mới thực sự bắt đầu những bước đi đầu tiên từ cuối năm 2006, đầu năm 2007 khi mà một loạt các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cổng TTĐT Payment Gateway ra đời như Vietpay, PayNet, Mobivi, Fibo… Tuy nhiên sự xuất hiện ồ ạt của các doanh nghiệp cũng không nhanh chóng đưa TTTT phát triển ở Việt Nam. Các doanh nghiệp không tránh khỏi thực trạng “có mà như không”, hoạt động cầm chừng và gần như không phát triển được. Chỉ một vài doanh nghiệp có hướng đi đúng đắn như PayNet, VTC hay VASC mới có thể tiếp tục phát triển và đạt được những thành công nhất định. Và công ty cổ phần thương mại và dịch vụ trực tuyến OnePay là một doanh nghiệp như vậy. OnePay nhận định để có thể phát triển thành công và hội nhập quốc tế thì phải chuyên nghiệp ngay từ đầu. Chính vì 2   vậy OnePay đã xây dựng một mô hình nhà cung cấp tuân theo những mô hình chuẩn trên thế giới. Ngoài ra, OnePay cũng đã sớm xác định du lịch sẽ là ngành có thể phát triển TTTT đầu tiên ở Việt Nam mà không phải là TMĐT. Mỗi năm Việt Nam đón trung bình từ 3 – 4 triệu lượt khách quốc tế - những người đã sẵn có thói quen TTTT bằng các thẻ tín dụng quốc tế - sẽ là thị trường tiềm năng nhất cho các doanh nghiệp du lịch và các nhà cung cấp dịch vụ TTTT. Vì những nhận định đúng đắn đó mà hiện nay OnePay đã trở thành doanh nghiệp dẫn đầu thị trường TTTT ở Việt Nam với hơn 70 khách hàng (tháng 3/2009) trong đó số lượng các doanh nghiệp du lịch chiếm khoảng 80%. 1.2 Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu Trong tương lai gần ngành du lịch Việt Nam đang hướng đến con số 5 triệu khách du lịch quốc tế đến Việt Nam mỗi năm và 30 triệu khách du lịch nội địa, đây thực sự sẽ là thị trường tiềm năng cho sự phát triển TTTT ở Việt Nam. Với vị thế là một doanh nghiệp dẫn đầu thị trường Việt Nam, OnePay đang có được những lợi thế nhất định trong cuộc cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ TTTT. Tuy nhiên chỉ với kinh nghiệm 2 năm hoạt động, OnePay cũng không tránh khỏi những thiếu sót, chất lượng sản phẩm dịchvụ chưa thật hoàn hảo. Chính từ thực tế trên, nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTTT tại Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến của OnePay cho các doanh nghiệp du lịch” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 1.3 Mục tiêu nghiên cứu Hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ bản về TTTT và nhà cung cấp dịch vụ TTTT, khảo sát, nghiên cứu làm rõ thực trạng về mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT cho các doanh nghiệp du lịch hiện tại ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT cho các doanh nghiệp du lịch. 1.4 Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: Là đề tài luận văn tốt nghiệp của sinh viên nên phạm vi nghiên cứu của đề tài mang tầm cỡ vi mô, giới hạn trong một doanh nghiệp nhất định. Cụ thể phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT, tập trung vào việc phát triển các dịch vụ TTTT của OnePay. 3   Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: Giới hạn nghiên cứu về mặt thời gian của đề tài luận văn là các số liệu được khảo sát từ năm 2007 đến năm 2009 của công ty OnePay, kết hợp với các số liệu thứ cấp bên ngoài trong vòng 5 năm trở lại đây. 1.5 Kết cấu của đề tài luận văn Ngoài các phần mục lục, danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ, danh mục từ viết tắt, tài liệu tham khảo và các phần phụ lục khác thì kết cấu đề tài nghiên cứu của luận văn gồm có 4 phần chính: Chương I: Tổng quan nghiên cứu đề tài. Chương II: Một số cơ sở lý luận cơ bản về thanh toán trực tuyến và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến. Chương III: Phương pháp nghiên cứu và kết quả phân tích thực trạng việc xây dựng mô hình nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến của công ty CPTM & DVTT OnePay. Chương IV: Một số giải phát phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến của công ty CPTM & DVTT OnePay cho các doanh nghiệp du lịch. 4   CHƯƠNG II - MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN TRỰC TUYẾN VÀ NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ THANH TOÁN TRỰC TUYẾN 2.1 Khái niệm về thanh toán trực tuyến và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến 2.1.1 Khái niệm về thanh toán trực tuyến Tiếp cận với khái niệm TTTT, chúng ta cần hiểu rõ hơn các khái niệm về TTĐT trong thương mại truyền thống và trong TMĐT ngày nay. Theo Uỷ ban Châu Âu, TTĐT được hiểu là việc thực hiện các hoạt động thanh toán thông qua các phương tiện điện tử dựa trên việc xử lý truyền dữ liệu điện tử. Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể tìm hiểu các khái niệm về TTTT. Theo báo cáo quốc gia về kỹ thuật TMĐT của Bộ Thương mại (cũ) thì “TTTT là việc trả tiền và nhận tiền hàng cho các hàng hoá, dịch vụ được mua bán trên Internet thông qua các thông điệp điện tử thay cho việc trao tay tiền mặt”. Ngoài ra cũng có những khái niệm khác về TTTT như sau: Theo Net-builder - một công ty cung cấp các dịch vụ trực tuyến thì “TTTT là giao dịch trao đổi giữa hàng và tiền theo những chuẩn nhất định thông qua các phương tiện truyền thông trực tuyến”1. 2.1.2 Khái niệm về nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến là bên thứ ba cung cấp các dịch vụ trực tuyến cho các đơn vị chấp nhận thanh toán điện tử theo các cách khách nhau như thẻ tín dụng, thanh toán ngân hàng như ghi nợ trực tiếp, chuyển khoản, thanh toán với thời gian thực dựa trên nền tảng ngân hàng trực tuyến2. 1 Online payment is a transaction of goods and money in any form through the online media. www.netbuilder.com.my/html/modules/tinycontent/index.php  2 An oline payment service provider offers merchants online services for accepting electronic payments by a variety of payment methods including credit card, bank-based 5   Ngoài ra cũng có những khái niệm do các tổ chức khác đưa ra về nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến như khái niệm của Ameris, một doanh nghiệp cung cấp các giải pháp hỗ trợ về mạng và công nghệ máy tính ở London – Anh. “Nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến là bên thứ ba cung cấp dịch vụ xử lý các giao dịch thẻ tín dụng trong thời gian thực thay mặt cho các website hoặc tổ chức”3. 2.2 Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu 2.2.1 Phương pháp thanh toán trực tuyến a. Thanh toán trực tuyến bằng các loại thẻ TTTT bằng thẻ thanh toán là hình thức thanh toán đơn giản nhất và cũng phổ biến nhất hiện nay. Các loại thẻ có thể TTTT là: − Thẻ tín dụng: Là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trải lãi để mua sắm hàng hoá dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh chấp nhận loại thẻ này. − Thẻ ghi nợ: Là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi được sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn…đồng thời chuyển ngân ngay lập tức vào tài khoản của cửa hàng khách sạn. Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản là thẻ online và offline. Thẻ online là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tải khoản chủ thẻ. Thẻ offline là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày. payments such as direct debit, bank transfer, and real-time bank transfer based on online banking. 3 Online Payment Provider is a third party that provides credit card transaction processing in real time on the behalf of website/organization. 6   − Thẻ rút tiền mặt là loại thẻ rút tiền tại các máy rút tiền tự động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gửi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới được sử dụng. Thẻ rút tiền mặt có hai loại, một loại chỉ có thể rút được ở các máy ATM của ngân hàng phát hành, loại thứ hai có thể rút tiền ở các ngân hàng khác tham gia vào liên minh thanh toán. b. Séc điện tử Séc điện tử là một phương tiện thanh toán mới kết hợp sự an toàn, tốc độ và hiệu quả xử lý của tất cả các phương tiện nghiệp vụ điện tử. Séc điện tử hoạt động như séc giấy nhưng dưới dạng điện tử thuần tuý với rất ít các bước bằng tay. Séc điện tử là một công cụ thanh toán quan trọng trong việc chuyển đổi và dẫn dắt các doanh nghiệp và người tiêu dùng vào thế giới mới nổi của TMĐT. c. Tiền điện tử “Tiền điện tử” hay “két điện tử” có thể được hiểu là một két ảo, nó có thể lưu trữ rất nhiều thông tin về thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, mật khẩu, thẻ hội viên và tất cả các số thẻ hiện có của khách hàng. Nó tạo thuận lợi cho khách hàng khi mua hàng trực tuyến bởi số thẻ tín dụng của khách hàng có thể được sao chép từ két điện tử và dán vào một đơn hàng trực tuyến mà không cần phải nhập số từ bàn phím. Két điện tử sử dụng một phần mềm để thực hiện các bước thanh toán. d. Thư điện tử Thanh toán qua thư điện tử cho phép các cá nhân có thể sử dụng thẻ tín dụng hoặc tài khoản ngân hàng của họ để thanh toán qua thư điện tử. Để thực hiện phương pháp này người thanh toán cần cung cấp số tài khoản trực tuyến của công ty; sau đó nhấp chuột vào đường dẫn đến trang thanh toán qua thư điện tử. Người gửi cần nhập các thông tin về người nhận, trị giá giao dịch, số thẻ tín dụng hay tài khoản nơi tiền được rút. Sau khi người thanh toán nhập đủ tại hòm thư của mình thì người nhận sẽ nhận được thông báo tiền đã được gửi và được cung cấp một siêu liên kết để nhận tiền. Thuận tiện của phương pháp này là người thanh toán không cần phải trực tiếp cung cấp số thẻ tín dụng của mình cho người bán hàng, vì vậy sẽ tránh được nhiều rủi ro khi TTTT. 7   e. Thanh toán ngang hàng – P2P payment Thanh toán P2P là một trong những phương thức TTTT phát triển nhanh nhất khi mà nó có khả năng chuyển khoản trực tuyến giữa hai cá nhân. Người dùng có thể mở một tài khoản của một nhà cung cấp dịch vụ kết nối với tài khoản ngân hàng. Sau đó người dùng sẽ chuyển tiền vào vào tài khoản P2P và có thể thực hiện thanh toán với các cá nhân khác cũng có tài khoản ở nhà cung cấp dịch vụ đó. 2.2.2 Quy trình thanh toán sử dụng thẻ tín dụng truyền thống Trong một nghiện vụ thanh toán sử dụng thẻ tín dụng thường bao gồm các bước cơ bản sau: (1) Phát hành thẻ tín dụng cho một người sở hữu thẻ tiềm năng (2) Người sở hữu thẻ trình thẻ cho đơn vị kinh doanh khi anh ta cần trả tiền cho hàng hoá và dịch vụ mua. (3) Đơn vị kinh doanh yêu cầu xác nhận từ tổ chức nhãn hiệu thẻ và giao dịch được thanh toán bằng tín dụng. Đơn vị kinh doanh giữ lại một phiếu bán hàng. (4) Đơn vị kinh doanh chuyển phiếu bán hàng cho ngân hàng chấp nhận thanh toán và trả cho họ một khoản phí cho dich vụ này. (5) Ngân hàng chấp nhận thanh toán yêu cầu tổ chức nhãn hiệu thẻ trừ khoản tín dụng và nhận tiền trả. Sau đó tổ chức nhãn hiệu thẻ yêu cầu khoản đã trừ với ngân hàng phát hành. (6) Số tiền được chuyển từ ngân hàng phát hành đến tổ chức nhãn hiệu thẻ. Số tiền tương đương được khấu trừ từ tài khoản của người sở hữu thẻ ở ngân hàng phát hành. Trong hệ thống thanh toán thẻ truyền thống, quá trình vừa mô tả chỉ được tự động hoá một phần. Tuy nhiên khi áp dụng TMĐT, cả quá trình phải được tự động hoá hoàn toàn trên internet với một phương thức đảm bảo. Trong quá trình thanh toán TMĐT, máy tính yêu cầu người mua nhập vào thông tin của thẻ để thực hiện quy trình thanh toán. Tuy nhiên phương pháp này nảy sinh một mối lo ngại cho khách hàng là vấn đề an ninh khi gửi qua internet… 8   2.2.3 Các phương thức thanh toán quốc tế và vận dụng trong kinh doanh du lịch truyền thống Phương thức thanh toán tiền mặt: Là phương thức thanh toán đơn giản nhất, khách du lịch trực tiếp nộp tiền cho các doanh nghiệp du lịch. Phương thức cà thẻ tại quầy giao dịch POS: Là phương thức TTĐT truyền thống, khách du lịch quẹt thẻ ATM vào máy POS đặt tại quầy giao dịch của doanh nghiệp du lịch. Phương thức chuyển tiền: Là phương thức trong đó khách du lịch (người cần chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một khoản tiền nhất định cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách du lịch yêu cầu. Phương thức ghi sổ: Là một phương thức thanh toán trong đó công ty du lịch mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ khách du lịch sau khi doanh nghiệp du lịch đã hoàn thành việc cung cấp dịch vụ du lịch, đến định kỳ người mua sẽ trả tiền cho doanh nghiệp. Phương thức nhờ thu: Là một phương thức thanh toán trong đó doanh nghiệp du lịch khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ cung ứng dịch vụ cho khách du lịch thì uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền của khách hàng trên cơ sở hối phiếu của doanh nghiệp lập ra. Phương thức tín dụng chứng từ: Là phương thức thanh toán trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách du lịch sẽ trả một số tiền nhất định cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch. 2.3 Tổng quan tình hình nghiên cứu của Việt Nam và thế giới về thanh toán trực tuyến 2.3.1 Các nghiên cứu trong nước Hiện nay, trong nước hầu như chưa có tài liệu nào hay công trình nghiên cứu khoa học trực tiếp nào về TTTT và các mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT được công bố chính thức. Chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp tự chủ động tìm hiểu từ các nguồn tài liệu khác nhau trên thế giới và ứng dụng hợp tác triển khai các mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT tại Việt Nam với các tổ chức, doanh nghiệp quốc tế. 9   Bản thân ngay cả các trường đại học tại Việt Nam đào tạo chuyên ngành về TMĐT cũng chưa có giáo trình đào tạo chính thức về TTTT mà vẫn là các tài liệu tổng hợp và dịch từ các trường đại học quốc tế, các tổ chức nghiên cứu quốc tế hay của chính các doanh nghiệp về TMĐT nói chung và TTTT nói riêng trên thế giới. Các giáo trình TMĐT căn bản của trường Đại học Thương mại, Đại học Ngoại thương cũng chỉ dành một phần rất nhỏ để giới thiệu về các hình thức TTĐT hiện nay đang có trên thế giới. Các đề tài luận văn tốt nghiệp trước kia cũng chủ yếu tập trung giới thiệu về hệ thống TTĐT của các NHTM tại Việt Nam như “ Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh toán chuyển tiền điện tử tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa – Hà Nội” của sinh viên Nguyễn Thị Lục Bình - Học viện Ngân hàng, hay như đề tài “thanh toán trong giao dịch TMĐT” của Lê Thị Duy Linh thuộc công ty GOL đề cập đến các phương tiện thanh toán trong TMĐT và những khó khăn khi áp dụng các mô hình TTĐT trên thế giới vào TMĐT tại Việt Nam. 2.3.2 Các nghiên cứu trên thế giới TMĐT nói chung và TTTT nói riêng trên thế giới đã phát triển từ những năm 1998, 1999 – là giai đoạn bùng nổ của internet và các công ty dotcom trên thế giới - nhờ có một nền tảng công nghệ vững chắc từ TTĐT truyền thống trước đó. Chính vì vậy các nghiên cứu trên thế giới về TTTT là rất chuyên sâu và khoa học. Một số sách và tài liệu về TTTT như Electronic Payment System for E-Commerce của Donal O’Mahony, Michael Peirce, Hitesh Tewari; The truth about Online Payments của Russell O’Brien; Electronic Bill Presentment and Payment của Kornel Terplan, New Payment World của Mary S. Schaeffer, Payment System in Global Perspectives của Maxwell J.Fry, Isaack Kilato và nhóm tác giả … Cuốn sách Electronic Payment System for E-Commerce của nhóm tác giả Donal O’Mahony, Michael Peirce và Histesh Tewari đã giới thiệu khá đầy đủ và chi tiết về công nghệ và hệ thống sử dụng cho phép việc thực hiện thanh toán qua internet. Cuốn sách được viết cho các nhà nghiên cứu và các chuyên gia trong ngành để mở rộng và phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực này. 10   Trong khi đó cuốn sách New Payment World của Mary S.Schaeffer lại cho ta cái nhìn toàn cảnh về lịch sử của các dịch vụ thanh toán trên thế giới, các phương thức thanh toán của “ngày hôm qua”, “hiện tại” và trong “tương lai” trên toàn thế giới. Cuốn sách là sự giới thiệu đầy đủ về các kỹ thuật bảo mật an toàn hệ thống trong TTĐT cho từng lĩnh vực khác nhau như tài chính, ngân hàng, chứng khoán, thuế, hải quan hay như các giao dịch doanh nghiệp và người dùng trong TMĐT. 2.4 Phân định nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài 2.4.1 Phân định nội dung Trong mục tiêu nghiên cứu của đề tài có ba mục tiêu cơ bản là hệ thống hoá lại cơ sở lý thuyết về TTTT và nhà cung cấp dịch vụ TTTT; thứ hai là khảo sát, nghiên cứu và làm rõ thực trạng về mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT cho các doanh nghiệp du lịch tại Việt Nam; từ đó đề xuất các giải pháp phát triển mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT cho các doanh nghiệp du lịch. Với mục tiêu nghiên cứu này thì trong chương hai, tác giả sẽ làm rõ lý thuyết về TTTT và phân loại các mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT, các vai trò và ý nghĩa của nhà cung cấp dịch vụ TTTT; sau đó sẽ là nghiên cứu các nhân tố tác động tới hoạt động cung cấp dịch vụ TTTT của nhà cung cấp, các hình thức TTTT đang có trên thị trường và các loại hình sản phẩm thanh toán có thể ứng dụng cho thị trường ngành du lịch. Trong chương ba, song song với việc nghiên cứu mô hình nhà cung cấp dịch vụ TTTT OnePay đang triển khai, tác giả sẽ nghiên cứu tổng quan tình hình và ảnh hưởng của các nhân tố môi trường kinh doanh đến việc cung ứng dịch vụ của OnePay cho các doanh nghiệp du lịch thông qua việc phát phiếu điều tra đánh giá cho các doanh nghiệp du lịch và TMĐT đang sử dụng dịch vụ cổng TTTT của OnePay. Trên cơ sở đó tôi sẽ phân tích thực trạng hoạt động của OnePay trong quá trình hai năm hoạt động. Từ các kết quả đánh giá trong chương ba, ở chương bốn tác giả sẽ đưa ra kết luận về những thành công và hạn chế của OnePay, các nguyên nhân của những tồn tại đó. Tiếp đến tác giả dự báo về tình hình phát triển của thị trường TTTT ở Việt Nam và trên thế giới, quan điểm và mục tiêu phát triển của OnePay. Dựa trên các 11   đánh giá về thị trường và mục tiêu phát triển của OnePay tác giả sẽ đề xuất các nhóm giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ của OnePay. 2.4.2 Các nội dung triển khai 2.4.2.1 Đặc điểm của thanh toán trực tuyến và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến a. Đặc điểm của thanh toán trực tuyến Thanh toán không bị giới hạn bởi không gian và thời gian: Dưới góc độ của TMĐT, hoạt động TTTT khôn