Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tếnước ta có sự
chuyển dịch mạnh mẽsang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụdẫn đến tốc độ
phát triển các đô thị, khu công nghiệp tăng rất nhanh. Mặt khác sựchênh
lệch thu nhập rất lớn giữa thu nhập ởthành thịvà nông thôn, sựdưthừa lao
động nông nghiệp là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sựdi cư ồ ạt của dòng
người từnông thôn sang thành thị đểsinh sống và làm việc tại các đô thịvà
các khu công nghiệp. Hiện nay có hàng triệu người thuộc đối tượng này
đang sống và làm việc tại các đô thịvà các khu công nghiệp. Vì vậy việc
giải quyết nhà ởcho các đối tượng này là vấn đềrất lớn cần được đánh giá
một cách đầy đủ, đúng mức từ đó đềra những giải pháp và chính sách mang
tính đồng bộ.
Các KCN, KCX của Việt Nam ngày càng trởthành nơi thu hút các nhà
đầu tưnước ngoài và trong nước. Hiệu quảtrước mắt có thểthấy là nhiều
việc làm mới được tạo ra, thu nhập tăng lên với người lao động cùng với sự
phát triển các hoạt động kinh tếkhác nhưtài chính, bảo hiểm, các dịch vụ
cho KCN, KCX. Điều lớn hơn là đã làm cho thay đổi nhanh chóng sựphát
triển kinh tếxã hội tại các tỉnh, thành phốcó KCN, KCX đóng góp cho sự
phát triển kinh tếxã hội chung của cảnước.
70 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2549 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Phát triển nhà ở cho công
nhân tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp.”
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta có sự
chuyển dịch mạnh mẽ sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ dẫn đến tốc độ
phát triển các đô thị, khu công nghiệp tăng rất nhanh. Mặt khác sự chênh
lệch thu nhập rất lớn giữa thu nhập ở thành thị và nông thôn, sự dư thừa lao
động nông nghiệp là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự di cư ồ ạt của dòng
người từ nông thôn sang thành thị để sinh sống và làm việc tại các đô thị và
các khu công nghiệp. Hiện nay có hàng triệu người thuộc đối tượng này
đang sống và làm việc tại các đô thị và các khu công nghiệp. Vì vậy việc
giải quyết nhà ở cho các đối tượng này là vấn đề rất lớn cần được đánh giá
một cách đầy đủ, đúng mức từ đó đề ra những giải pháp và chính sách mang
tính đồng bộ.
Các KCN, KCX của Việt Nam ngày càng trở thành nơi thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài và trong nước. Hiệu quả trước mắt có thể thấy là nhiều
việc làm mới được tạo ra, thu nhập tăng lên với người lao động cùng với sự
phát triển các hoạt động kinh tế khác như tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ
cho KCN, KCX. Điều lớn hơn là đã làm cho thay đổi nhanh chóng sự phát
triển kinh tế xã hội tại các tỉnh, thành phố có KCN, KCX đóng góp cho sự
phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.
Theo kinh nghiệm thực tế đã cho thấy, để nâng cao hiệu quả và phát
triển năng suất lao động thì một trong những việc phải làm là việc phân bổ
dân cư, lao động tại các vùng công nghiệp phải tính đến điều kiện về thời
gian đi lại của công nhân sao cho ít nhất. Từ chỗ làm việc đến chỗ ở trung
3
bình không nên quá 30-40 phút tuỳ thuộc vào hệ thống giao thông và tốc độ
di chuyển của phương tiện đi lại. Tuy nhiên các khu dân cư cần có khoảng
cách với khu vực sản xuất để tránh ô nhiễm môi trường.
Số lượng lao động tăng nhanh nhưng quy hoạch phát triển khu công
nghiệp chưa tính tới yêu cầu về chỗ ở cho công nhân. Chỉ khi xây dựng xong
cơ sở hạ tầng thì vấn đề nhà ở cho công nhân mới trở nên bức xúc. Ở phía
nhà nước cũng như phía doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa có hướng giải
quyết và cho đến nay cũng chưa có cơ chế chính sách rõ ràng cho công tác
xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam. Vì vậy, em
nghiên cứu đề tài “Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”.
Đề tài tập trung làm rõ hai mục tiêu chính:
Thứ nhất, nêu lên thực trạng của việc phát triển nhà ở cho công nhân tại
các KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Đã có những cơ chế
chính sách nào của nhà nước nhằm định hướng giải quyết cho vấn đề nhà ở
công nhân chưa? Nó có hiệu quả gì không?
Thứ hai, tìm hiểu nguyên nhân và đề ra một số giải pháp cho việc phát
triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và giải pháp phát triển
nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về không gian: Đề tài sẽ nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển
nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX trên phạm vi cả nước, tuy nhiên có
tập trung vào những khu công nghiệp điển hình ở Việt Nam như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh...
4
Về thời gian: Những số liệu liên quan dùng trong đề tài để phân tích,
nghiên cứu được thu thập trong thời gian 5 năm gần đây, từ 2001-2006; đề
tài sẽ kiến nghị những giải pháp đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tổng hợp kết hợp với phương
pháp chuyên gia trong phân tích; Dựa trên tài liệu, sách báo có liên quan,
những đề tài đã nghiên cứu trước đây; dựa trên số liệu thứ cấp của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã điều tra thực tế tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam của các nhà nghiên cứu có liên quan đến
đề tài.
Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo thì phần nội dung chính của đề tài được giải quyết trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan chung về nhà ở cho công nhân tại các KCN,
KCX và kinh nghiệm của các nước trên thế giới về việc phát triển nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX.
Chương 2: Thực trạng về phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN,
KCX và các cơ chế chính sách của nhà nước về việc phát triển nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam.
Chương 3: Những kiến nghị và giải pháp cho việc phát triển nhà ở cho
công nhân tại các KCN, KCX.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC
KCN, KCX VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN,
KCX
1. Khái quát về các KCN, KCX.
Sau hơn 15 năm phát triển kể từ khi ra đời KCN đầu tiên (khu chế xuất
Tân Thuận – thành lập ngày 24/9/1991), cho đến giữa năm 2006, cả nước ta
đã có 135 KCN, KCX được thành lập ở 45 tỉnh, thành phố trong cả nước với
tổng diện tích đất tự nhiên 26.500 ha, trong đó có 75 KCN, KCX đã đi vào
hoạt động. Số lượng các KCN vẫn tiếp tục gia tăng mạnh mẽ và theo số liệu
gần đây nhất, tính đến tháng 10/2007 cả nước đã có 154 KCN được thành
lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.808 ha. Trong đó diện tích đất công
nghiệp có thể cho thuê là 21.775 ha chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên.
Có 92 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và
62 KCN đang trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ
bản với tổng diện tích đất tự nhiên 12.073 ha. Theo kế hoạch đến 2015 có
khoảng 109 KCN nữa sẽ hình thành.
Tính đến giữa năm 2006 các KCN ở nước ta đã thu hút 86 vạn lao động
trực tiếp làm việc trong KCN và trên một triệu lao động trong lĩnh vực xây
dựng, cung cấp dịch vụ cho các KCN tại các cơ sở kinh doanh ngoài KCN.
Tỷ lệ bình quân thu hút lao động tại các KCN trên một đơn vị diện tích hiện
nay là 90-100 người/ ha . Nếu KCN tập trung các ngành nghề như dệt may,
lắp ráp điện tử, sản xuất giày dép…có sử dụng nhiều lao động thì tỷ lệ trên
còn cao hơn. Như vậy với KCN, KCX có quy mô bình quân ở Việt Nam
6
hiện nay là 100-150 ha thì một KCN sẽ có khả năng thu hút 10.000-15.000
lao động. Với KCN có quy mô diện tích lớn tới 2.700 ha như KCN Nhơn
Trạch (Đồng Nai) thì khi lấp đầy lượng lao động làm việc tại đây đạt mức
300.000 người và sẽ tạo nên ở đây một đô thị công nghiệp mới.
Các KCN, KCX phân bố ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước tuy nhiên
nó tập trung chủ yếu ở những vùng kinh tế trọng điểm của ba miền Bắc,
Trung, Nam. Với tổng diện tích đất tự nhiên lên tới 25.900 ha, 110 KCN này
chiếm gần 80% tổng diện tích các KCN trong cả nước. Đến thời điểm cuối
tháng 10/2007, các KCN, KCX trên cả nước đã cho thuê được trên 11.177
ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN
cả nước là 54,1%, riêng các KCN đã vận hành thì cho thuê được trên 9.928
ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là trên 71,1%.
Theo thống kê tại các địa phương gửi báo cáo và ước tính từ các nguồn
thông tin khác, hiện nay có khoảng 1 triệu lao động đang làm việc tại các
KCN, KCX và các khu kinh tế trên toàn quốc. Trong số những lao động này
có khoảng trên 700.000 lao động là người tỉnh ngoài hoặc huyện ngoài và có
nhu cầu thuê nhà ở trong thời gian lao động tại các KCN, KCX. Trong các
khu nhà tập trung (xây dựng từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc từ phía các
doanh nghiệp) cũng chỉ đủ cung cấp chỗ ở, sinh hoạt cho khoảng 7-10% số
lao động đang lam việc tại đây và có nhu cầu về nhà ở. Trên 90% công nhân
còn lại phải tự thu xếp chỗ ở, thuê trọ rải rác trong các khu dân cư gần nơi
họ làm việc hay các KCN.
Với sự phát triển hiện nay của các KCN, KCX ở Việt Nam thì đến nay
các KCN, KCX này đã thu hút trên cả nước được 2.600 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 25,3 tỷ USD và gần 2.800 dự án đầu tư
trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 137 nghìn tỷ đồng (chưa kể
7
các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng số vốn đầu tư 976
triệu USD và 43 nghìn tỷ đồng).
Việc phát triển các KCN, KCX đã và đang góp phần quan trọng giải
quyết việc làm cho lao động tại chỗ và lao động nhập cư. Trong thời gian
tới, lực lượng lao động trong các KCN, KCX gia tăng mạnh mẽ cùng với sự
phát triển của các dự án hoạt động trong các KCN, KCX. Tính đến tháng
6/2007 , các KCN, KCX của cả nước đã thu hút được khoảng 1 triệu lao
động trực tiếp với tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng lên và đạt
gần 40%. Ngoài ra nếu tính cả số lao động gián tiếp thì tổng số việc làm
được tạo ra từ chương trình phát triển KCN, KCX tập trung nhiều nhất là tại
TP Hồ Chí Minh với khoảng trên 210 nghìn lao động làm việc tại hơn 100 xí
nghiệp trong 14 KCN, KCX, trong số này có khoảng 60-70% lao động là
người từ các địa phương khác đến làm việc tại TP Hồ Chí Minh và đại đa số
công nhân ở đây đều có nhu cầu nhà trọ. Trong khi đó toàn thành phố chỉ có
4/14 KCN là có xây nhà lưu trú cho công nhân, còn lại đều không có hoặc là
công nhân phải sống trong các khu nhà tạm bợ, thiếu thốn điều kiện sinh
hoạt tối thiểu.
Năm 2007, TP Hồ Chí Minh đã khởi công xây dựng nhà lưu trú tại 5
khu là: Tân Thuận, Linh Trung 2, Tân Thới Hiệp, Long Thới, Vĩnh Lộc với
tổng quy mô đáp ứng được gần 7000 chỗ ở cho công nhân. Đến tháng
3/2007 thành phố tiến hành sửa chữa 2 khu nhà ở KCX Linh Trung để đưa
công nhân vào ở. Ngoài ra thành phố cũng tích cực bổ sung quy hoạch bên
ngoài KCN, KCX quyết tâm xây dựng được 8000-10.000 chỗ ở cho công
nhân trong năm 2008.
Riêng tại Hà Nôị, quá trình mở rộng phát triển và thu hút mạnh đầu tư
vào các KCN, KCX đã tạo lên sức hút mạnh về lao động tại đây, bao gồm
8
đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân, nhân viên nghiệp vụ và cán bộ quản lý
trong đó 90% là công nhân và kỹ thuật viên. Trong số những lao động đang
làm việc tại Hà Nội có cả người Việt Nam và người nước ngoài chủ yếu là
cán bộ quản lý hay kỹ thuật viên cao cấp.
Lao động trong các KCN, KCX ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói
chung hiện nay có đặc điểm là lao động trẻ, lao động nữ và lao động di cư
chiếm tỷ lệ khá cao. Lao động ở độ tuổi từ 18 đến 35 chiếm 90% tổng số lao
động trong các KCN, KCX. Lao động nữ chiếm 60% (phù hợp với ngành da
giày, dệt may, thuỷ sản); lao động từ địa phương khác đến làm việc chiếm
65%.
Tại Đà Nẵng có 6 KCN trên tổng diện tích đất khoảng 1500 ha và thu
hút khoảng 40 nghìn lao động. Trong số đó có khoảng 60% là người ngoại
tỉnh cần chỗ trọ. Riêng quận Liên Chiểu, dân số sở tại khoảng 91 nghìn
người. Trong khi đó số lao động ngoại tỉnh khoảng 30 nghìn người. Cùng
lúc đó trên địa bàn quận còn có khoảng 30 nghìn sinh viên của các trường
đại học. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có chương trình, dự án về nhà trọ cho công
nhân các KCN, KCX.
Quảng Nam với 5 KCN, KCX thu hút khoảng 18 nghìn lao động. Riêng
tại KCN Điện Nam - Điện Ngọc (huyện Điện Bàn) có khoảng 15 nghìn lao
động, tuy nhiên số nhà ở cũng mới chỉ đáp ứng được khoảng 5%, còn lại thì
95% số người lao động đều phải tự tìm chỗ ở trong dân. Hầu hết số lao động
này đang phải thuê ở những nhà trọ mà số lượng và chất lượng của chúng
đa phần là thấp, cũng chưa thể có số liệu thống kê được.
Tại tỉnh Bình Dương có 21 KCN, KCX chiếm diện tích khoảng 5300 ha
với khoảng 149 nghìn lao động. Tuy nhiên mới chỉ có rất ít khu nhà chính
9
thức là dành cho công nhân. Ở đây chỉ có công ty giày Thái Bình thì có
khoảng 1000 chỗ ở cho công nhân và Mỹ Phước thì có khoảng 900-1000
chỗ, còn lại hầu hết đều chung tình trạng như các KCN, KCX trên toàn
quốc.
Tại thị trấn Bến Lức (Long An), dân số trên địa bàn của thị trấn khoảng
trên 18 nghìn người, riêng nhà máy Chin Lou đóng tại địa bàn thị trấn đã có
khoảng 25 nghìn công nhân làm việc. Trong số đó có khoảng 10 nghìn
người đang thuê nhà trên đất thị trấn. Trong tổng số những công nhân thuê
nhà này chỉ có vài nghìn người là có khả năng thuê được những nhà trọ xây
dựng tương đối cơ bản của các doanh nghiệp cho thuê nhà trọ như Kim Tỷ
và Dung Quý. Số công nhân và lao động còn lại phải thuê những nhà rất tạm
bợ, cơi nới, tận dụng.
Số lao động trong các KCN, KCX tăng nhanh với các điều kiện
và đặc điểm nêu trên dẫn đến cầu về nhà ở tăng mạnh tại các khu vực KCN
(nhà ở cho người địa phương khác đến làm việc, nhà ở cho gia đình trẻ mới
hình thành …). Hầu như toàn bộ số người lao động từ địa phương khác đến
làm việc tại các KCN, KCX đều có nhu cầu về nhà ở. Một số lao động là
người địa phương cũng có nhu cầu về nhà ở gần KCN, KCX do chế độ làm
việc theo ca kíp của các doanh nghiệp buộc người dân phải bám xưởng bám
máy hay làm thêm giờ. Do diện tích nhà ở của gia đình hiện có chật hẹp, do
bản thân người lao động thích sống tự lập không muốn phụ thuộc gia đình,
bên cạnh đó cũng do giao thông trong khu vực chưa thuận tiện, tốn nhiều
thời gian hoặc kém an toàn nên một số công nhân tuy trong cùng huyện với
những KCN, KCX song ở các địa điểm khó khăn về giao thông vẫn có nhu
cầu về nhà ở gần KCN…
10
Phần lớn những nhà cho thuê đều là nhà tạm bợ, lợp ngói xi măng,
khoảng 3-4 công nhân thuê một buồng với giá từ 100.000-150.000
đồng/người/tháng không kể điện nước; ở các khu vực xa đô thị lớn thì giá
thuê phòng có thấp hơn chút ít. Tình hình an ninh trật tự tại các khu công
nhân thuê trọ ở một số KCN cũng có nhiều bức xúc do lực lượng lao động
thuê nhà đông và phức tạp.
2. Nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX – Khái niệm và phân
loại.
2.1. Khái niệm chung về nhà ở.
Mỗi quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển cũng đều có một sự
giống nhau, đặc biệt đối với những nước đang có nền công nghiệp phát triển
đều có sự giống nhau về phân tầng xã hội trong cộng đồng dân cư. Điều này
thể hiện ở chỗ, bao giờ trong xã hội của nó cũng bao gồm những hộ gia đình
có mức sống, sinh hoạt, thu nhập hoàn toàn khác nhau. Đó là những người
có thu nhập rất cao; những người có thu nhập cao; những người có thu nhập
trung bình; những người có thu nhập thấp; và những người có thu nhập rất
thấp.
Với những người thuộc nhóm có thu nhập cao, rất cao hay trung bình
thì với họ vấn đề nhà ở không có gì khó khăn lắm cho họ, nhưng với những
người có thu nhập thấp và rất thấp thì lại khác. Họ hầu hết là gặp khá nhiều
khó khăn trong vấn đề tạo lập nhà ở.
Hầu hết những chương trình phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới,
bao giờ chương trình nhà ở cho các thành phần dân cư trong xã hội cũng
được quan tâm rất nhiều. Chương trình này bao gồm cả các thành phần dân
cư, đối tượng xã hội là nhà cho người lao động tại các khu sản xuất, nhà cho
11
người nghèo, người gặp khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống do thiên tai,
bệnh tật,… Tùy theo tình hình, đặc điểm thực tế của mỗi nước và trong từng
hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn mà có chính sách đầu tư phát triển nhà ở
cho các đối tượng nêu trên là khác nhau. Từ việc đầu tư bằng ngân sách nhà
nước đến việc khuyến khích và tạo điều kiện để hỗ trợ các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực xây dựng nhà ở để cho các đối tượng này
thuê, tạm thời cư trú hoặc thuê mua.
Để hiểu thế nào là nhà ở cho công người lao động, công nhân tại các
KCN, KCX, thì hiện nay chưa từng có một khái niệm cụ thể nào nói đến.
Cũng chưa có khái niệm thống nhất nào về nhà ở cho công nhân, người lao
động tại các KCN, KCX. Theo những điều khoản, quy phạm trong “Chương
I: Những quy định chung” của Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6 tháng 9
năm 2006 về Quy định chi tiết và hướng dấn thi hành Luật Nhà ở, chúng ta
có khái niệm về “nhà ở xã hội” được dùng nhất thể hóa với nhà ở công nhân,
người lao động tại các KCN, KCX như sau: “Nhà ở xã hội” được hiểu là
nhà ở do nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu
tư xây dựng cho các đối tượng quy định tại điều 53 và điều 54 của Luật Nhà
ở thuê hoặc thuê mướn theo cơ chế do Nhà nước quy định.”
Ngoài ra trong luật Nhà ở còn có quy định về điều kiện được thuê và
mua nhà ở xã hội bao gồm:
- Chưa có sở hữu nhà và chưa được thuê hoặc thuê mua nhà ở thuộc sở
hữu nhà nước; có nhà ở thuộc sở hữu của mình nhưng diện tích bình quân
trong hộ gia đình dưới 5m2 sàn/ người; nhà ở thuộc sở hữu của mình nhưng
là nhà ở tạm, hư hỏng hoặc dột nát.
- Người được thuê – mua quỹ nhà ở xã hội ngoài các điều kiện quy định
nói trên còn phải thanh toán lần đầu 20% giá trị của nhà được thuê mua.
12
Vấn đề nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư
xây dựng nhà ở cho công nhân, cho người lao động được thể hiện qua các
chính sách về đất đai như: không tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, có
những chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về lãi suất vốn vay và các chính
sách tạo điều kiện và ưu đãi khác như giá cho thuê, giá thuê mua được tính
trên nguyên tắc bảo toàn vốn đầu tư xây dựng.
2.2. Các loại hình nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX.
Nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX hiện nay rất đa dạng và có
nhiều hình thức, tuy nhiên có thể chia thành ba loại chính như sau:
- Nhà ở do nhà nước xây dựng.
- Nhà ở do các doanh nghiệp xây dựng.
- Nhà ở do các hộ dân xây dựng.
Thứ nhất là loại nhà ở do nhà nước xây dựng. Đây là loại hình nhà ở có
chất lượng cao nhất trong tất cả các loại hình nhà ở dành cho công nhân,
người lao động trong các KCN, KCX thuê vì loại nhà ở này được xây dựng
theo tiêu chuẩn của Nhà nước ban hành. Hiện nay loại nhà ở này có rất ít, nó
chiếm khoảng 1% trong tổng số lượng nhà ở cho công nhân thuê và chỉ được
thực hiện ở một số địa phương tập trung các KCN lớn như TP Hồ Chí Minh,
Bình Dương và Đồng Nai. Đây là một loại hình nhà ở chung cư chưa được
xây dựng ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương khác ngoài những
thành phố trên.
Thứ hai là loại nhà do các doanh nghiệp xây dựng, đây là loại nhà ở
được thiết kế trên diện tích đất tại các KCN. Loại nhà này được xây dựng
khoảng 3-5 tầng theo tiêu chuẩn của Bộ xây dựng và quy định của UBND
TP Hồ Chí Minh (Quyết định 75). Những khu nhà ở này hiện nay đang
được xây dựng và hoàn chỉnh để đưa vào sử dụng, nhưng hầu hết nó tập
13
trung ở TP Hồ Chí Minh như ở KCX Tân Thuận do công ty cổ phần phát
triển Sài Gòn xây dựng 2 khu nhà quy mô 1900 chỗ ở, KCN Tân Bình, công
ty phát triển nhà Quận 5 xây dựng 2 khu chung cư với quy mô 720 chỗ ở;
KCX Linh Trung 1, công ty dịch vụ địa ốc Sài Gòn xây dựng 104 phòng vơi
quy mô 840 chỗ ở, Tổng công ty xây dựng Sài Gòn xây dựng 2 khu nhà 5
tầng với quy mô 1520 chỗ ở; KCN Vĩnh Lộc, công ty cổ phần nhà Quận 5
xây dựng 2 khu chung cư với quy mô là 720 chỗ ở.. Theo số liệu thống kê về
việc nhà nước và doanh nghiệp đảm bảo được chỗ ở cho người lao động ta
thấy:
Tỉnh, thành phố Tỷ lệ nhà ở được đảm bảo (%)
TP Hồ Chí Minh 5.4
Đồng Nai 6.5
Bình Dương 15
Như vậy ta thấy so vói tổng nhu cầu của người lao động về chỗ ở thì tỷ
lệ này là quá ít. Doanh nghiệp và nhà nước mới chỉ đảm bảo được một phần
nhỏ số lượng nhà cho công nhân tại các KCN, KCX.
Đây là những khu nhà đảm bảo chất lượng tốt thứ hai sau loại nhà ở do
nhà nước xây dựng. Chất lượng của nó hơn hẳn so với những loại nhà ở do
doanh nghiệp tư nhân và các hộ gia đình xây dựng để cho thuê. Khu nhà này
đã đảm bảo được chất lượng cuộc sống của người công nhân. Nhà ở do
doanh nghiệp xây dựng trong khuôn viên đất của doanh nghiệp trong KCN.
Vì vậy chất lượng cuộc sống trong này bị tách biệt với cộng đồng dân cư,
đồng thời những hạ tầng xã hội đi kèm với chất lượng cuộc sống cũng có
nhiều bất cập
14
Thứ ba là loại nhà ở do các hộ dân xây dựng, hiện nay loại nhà ở này
khá phổ biến ở hầu hết các KCN, KCX trên cả nước. Theo số liệu điều tra
của nhóm nghiên cứu đề tài liên quan đến vấn đề nhà ở cho công nhân tại
các KCN, KCX ở Việt Nam của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương cho thấy, tại TP HCM nhà ở do hộ gia đình xây dựng đảm bảo được
96,4%