Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 5 năm triển khai và đi vào hoạt động, những kết quả đạt được bước đầu là không thể phủ nhận, tuy nhiên hoạt động của thị trường cũng còn nhiều tồn tại và bất cập. Thực tế hiện nay, TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh đã bước đầu ổn định, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, thị trường này mới chỉ đáp ứng cho các doanh nghiệp có vốn lớn trên 10 tỷ đồng, và có khả năng đáp ứng những yêu cầu khắt khe để được niêm yết trên Trung tâm, như vậy quy mô của thị trường còn rất nhỏ bé. Trong khi hiện nay các DNV&N ở nước ta chiếm tỷ trọng tương đối lớn, khoảng 88% tổng số doanh nghiệp hiện có, đóng góp khoảng 45% GDP cho nền kinh tế. Nhưng thực tế các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để đầu tư mở rộng và tiếp tục sản xuất. TTGDCK Hà Nội cũng đã chính thức đi vào hoạt động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp DNV&N được tham gia vào thị trường chứng khoán để có thể tiếp cận được nguồn vốn trung và dài hạn. Song quy mô thị trường còn rất nhỏ, hàng hoá ít, chưa thu hút được nhiều các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N tham gia thị trường mặc dù các quy định niêm yết đã được nới lỏng hơn rất nhiều so với trên TTGDCK Tp.HCM. Trong khi đó, thị trường tự do lại hoạt động khá sôi động, có quy mô khá lớn song lại tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro và về lâu dài khó đảm bảo được tính bền vững. Việc tổ chức và phát triển thị trường chứng khoán cho DNV&N là đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Nội dung chính: DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT1 PHẦN MỞ ĐẦU2 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ4 1.1. Tổng quan về chứng khoán và thị trường chứng khoán.4 1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán4 1.1.2. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán.5 1.1.2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán.5 1.1.2.2. Vai trò của TTCK7 1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK9 1.1.3.1. Chủ thể quản lý9 1.1.3.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính )10 1.1.3.3. Các nhà đầu tư10 1.1.3.4. Tổ chức phát hành chứng khoán.11 1.1.3.5. Các tổ chức phụ trợ11 1.1.4. Phân loại TTCK.12 1.2. Một số vấn đề về doanh nghiệp vừa và nhỏ.14 1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.14 1.2.2. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ16 1.2.4.1. Tình hình các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay.21 1.2.4.2. Nhu cầu về vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay.24 1.2.4.3. Khả năng huy động vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ và những khó khăn gặp phải.25 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.27 1.3.1. Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.27 1.3.2. Khung pháp lý28 1.3.3.Năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước.28 1.3.4.Công chúng đầu tư.29 1.3.5.Sự tích cực tham gia của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ.29 1.3.6. Chính sách hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước.30 1.3.7. Hệ thống các trung gian tài chính.30 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY32 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.32 2.2. Đánh giá khả năng tham gia thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay37 2.3. Thực trạng thị trường cổ phiếu của doanh nghiệp vừa và nhở ở Việt Nam hiện nay.42 2.3.1. Thực trạng thị trường tự do.42 2.3.2. Thực trạng đấu giá và giao dịch cổ phiếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên Trung tân giao dịch chứng khoán Hà Nội45 2.3.2.1 Hoạt động đấu giá cổ phần doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá:46 2.3.2.2. Hoạt động giao dịch thứ cấp:47 2.4. Đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.58 2.4.1. Kết quả:58 2.4.2. Hạn chế.60 2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế.61 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM67 3.1. Căn cứ để phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiêp vừa và nhỏ ở Việt Nam.67 3.1.1. Định hướng chung để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010.67 3.1.2. Quan điểm phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghi ở Việt Nam.71 3.2. Một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam73 3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý.73 3.2.2. Thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký giao dịch trên TTGDCK Hà nội.75 3.2.2.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác CPH DNNN, thực hiện gắn CPH với việc đấu giá và đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội.75 3.2.2.2. Tăng cường các khuyến khích cho các công ty niêm yết.77 3.2.3. Khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài.79 3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo chứng khoán cho doanh nghiệp và công chúng.80 3.2.5. Nâng cao vị thế, quyền hạn, năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán.81 3.2.6. Tăng cường vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán.82 3.2.7. Hình thành và phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm.83 3.2.8. Năng cao năng lực hoạt động của các trung gian tài chính84 3.2.9. Về công nghệ86 3.2.10. Hoàn thiện chính sách kế toán, kiểm toán.86 3.3. Kiến nghị.87 3.3.1. Đối với Chính phủ87 3.3.2. Đối với các Bộ, ngành thuộc Chính phủ.87 3.3.2.1. Đối với Bộ Tài chính.87 3.3.2.2. Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.88 3.3.2.3. Đối với Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.88 3.3.2.4. Đối với Bộ Thương mại88 KẾT LUẬN89 PHỤ LỤC90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.101

doc105 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2798 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT Stt  Chữ viết tắt  Ý nghĩa   1  CtyCP  Công ty cổ phần   2  CNH-HĐH  Công nghiệp hoá, hiện đại hoá   3  CPH  Cổ phần hoá   4  DNNN  Doanh nghiệp nhà nước   5  DNV&N  Doanh nghiệp vừa và nhỏ   6  NHTM  Ngân hàng thương mại   7  TTGDCK  Trung tâm giao dịch chứng khoán   8  TTCK  Thị trường chứng khoán   9  Tp. HCM  Thành phố Hồ Chí Minh   10  UBCKNN  Uỷ ban chứng khoán nhà nước   PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 5 năm triển khai và đi vào hoạt động, những kết quả đạt được bước đầu là không thể phủ nhận, tuy nhiên hoạt động của thị trường cũng còn nhiều tồn tại và bất cập. Thực tế hiện nay, TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh đã bước đầu ổn định, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, thị trường này mới chỉ đáp ứng cho các doanh nghiệp có vốn lớn trên 10 tỷ đồng, và có khả năng đáp ứng những yêu cầu khắt khe để được niêm yết trên Trung tâm, như vậy quy mô của thị trường còn rất nhỏ bé. Trong khi hiện nay các DNV&N ở nước ta chiếm tỷ trọng tương đối lớn, khoảng 88% tổng số doanh nghiệp hiện có, đóng góp khoảng 45% GDP cho nền kinh tế. Nhưng thực tế các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để đầu tư mở rộng và tiếp tục sản xuất. TTGDCK Hà Nội cũng đã chính thức đi vào hoạt động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp DNV&N được tham gia vào thị trường chứng khoán để có thể tiếp cận được nguồn vốn trung và dài hạn. Song quy mô thị trường còn rất nhỏ, hàng hoá ít, chưa thu hút được nhiều các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N tham gia thị trường mặc dù các quy định niêm yết đã được nới lỏng hơn rất nhiều so với trên TTGDCK Tp.HCM. Trong khi đó, thị trường tự do lại hoạt động khá sôi động, có quy mô khá lớn song lại tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro và về lâu dài khó đảm bảo được tính bền vững. Việc tổ chức và phát triển thị trường chứng khoán cho DNV&N là đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, em đã chọn “Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu. - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về việc phát triển TTCK của các DNV&N. - Đánh giá thực trạng của TTCK của các DNV&N ở Việt Nam. - Đề xuất hệ thống các giải pháp phát triển TTCK của các DNV&N. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thị trường cổ phiếu của các DNV&N ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu phát triển thị trường cổ phiếu của các DNV&N trên TTGDCK Hà Nội. 4. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm căn bản. Đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể như phân tích, đánh giá… 5. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về TTCK của các DNV&N. Chương 2: Thực trạng TTCK của các DNV&N ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Giải pháp phát triển TTCK của các DNV&N ở Việt Nam. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. Tổng quan về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán-các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, theo những quy tắc ấn định trước. TTCK ra đời xuất phát từ nhu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư. Tới một lúc nào đó, nhu cầu vốn này vượt quá khả năng đáp ứng của các kênh huy động truyền thống. Mà trên thực tế, đang tồn tại một lượng vốn rất lớn trong cộng đồng dân cư chưa tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối trong nền kinh tế, đó là những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư, dẫn đến vốn bị ứ đọng, gây lãng phí. Xuất phát từ nghịch lý này, TTCK đã ra đời đóng vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây. Cho đến nay, quá trình phát triển của nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã đánh dấu hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ ngày thứ 5 đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ 2 đen tối”, 19/10/1987. Song, cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường đã được phục hồi, tiếp tục phát triển và trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu của kinh tế thị trường. 1.1.2. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán. 1.1.2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán. TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là hoạt động của TTCK. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Có nhiều cách để phân loại chứng khoán dựa theo các tiêu thức khác nhau. Nếu dựa theo tính chất của chứng khoán thì hàng hoá trên thị trường bao gồm hai loại chủ yếu là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Với chứng khoán vốn, mà đại diện là cổ phiếu, nó xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp đó của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền tham gia quản lý công ty thông qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông, quyền mua trước đối với cổ phiếu phát hành mới. Với chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả cho chủ sở hữu chứng khoán toàn bộ giá trị cam kết bao gồm cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định. Với các đặc tính trên, chứng khoán được xem là các tài sản tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền của chủ sở hữu đối với tổ chức phát hành. Đặc điểm cơ bản nhất của TTCK là thị trường tự do, tự do nhất trong các loại thị trường. Ở TTCK không có sự độc đoán, can thiệp cưỡng ép về giá. Giá mua bán hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hay ở thị trường thứ cấp, tại Sở giao dịch hay tại thị trường giao dịch qua quầy, ở thị trường giao ngay hay ở thị trường kì hạn. Các quan hệ mua bán trao đổi làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Quá trình vận động của tư bản được thực hiện xuất phát từ chức năng kinh tế nòng cốt của thị trường tài chính trong việc dẫn vốn từ những người tạm thời dư thừa vốn sang những người cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được thể hiện qua sơ đồ H1.1  Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con đường trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể huy động trực tiếp từ những người tạm dư thừa vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Hoặc con đường thứ hai để dẫn vốn là thông qua các trung gian tài chính, đây là một bộ phận đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và góp phần tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn. Như vậy, thị trường tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc tích tụ, tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế. Được xem là đặc trưng cơ bản của thị trường vốn, TTCK là thị trường mà giá cả của chứng khoán (hàng hoá trên thị trường) chính là giá cả của vốn đầu tư, vì vậy, TTCK được coi là hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường. 1.1.2.2. Vai trò của TTCK Xu thế hội nhập và quốc tế hoá nền kinh tế đòi hỏi tự bản thân mỗi quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Một thị trường tài chính năng động có khả năng làm tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế hơn bất cứ một loại tài nguyên nào, mà trong đó TTCK là một định chế tài chính rất quan trọng. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của TTCK trong phát triển kinh tế: Thứ nhất, TTCK cùng với sự vận hành của mình đã tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả. Thứ hai, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp. Với cơ chế thông tin hoàn hảo đã tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, đảm bảo phân bổ lợi ích một cách hài hoà giữa người sở hữu, nhà quản lý và người làm công ăn lương. Đồng thời, TTCK đã tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN. Thứ ba, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, từ đó phân tán quyền lực kinh tế trong tay một số tập đoàn, tránh hiện tượng độc quyền, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ có thể huy động được các nguồn tài chính để phục vụ cho các mục đích của mình mà không tạo áp lực về lạm phát, hơn nữa, hoạt động của TTCK còn giúp tăng thu ngân sách cho Nhà nước, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thứ năm, việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế hay nói khác đi muốn khẳng định đến tính hiệu quả của quốc tế hoá TTCK. Điều này cho phép các công ty có thể huy động được một lượng vốn đầu tư lớn ở thị trường ngoài nước, bên cạnh đó mở rộng các cơ hội kinh doanh cho các công ty trong nước, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn được rẻ hơn. Thứ sáu, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc giá chứng khoán lên xuống có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh đã đưa ra một dự báo giúp cho Chính phủ và các công ty có kế hoạch phân bổ các nguồn lực của họ. Như vậy, TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. Ngoài những tác động tích cực trên, hoạt động của TTCK cũng có những tác động tiêu cực nhất định. Ta biết rằng, thị trường hoạt động dựa trên cơ sở thông tin hoàn hảo, tuy nhiên ở hầu hết các thị trường không phải nhà đầu tư nào cũng có khả năng tiếp cận thông tin đầy đủ và như nhau, vì vậy việc đưa ra các quyết định đầu tư không hoàn toàn dựa trên việc xử lý thông tin, dẫn tới việc giá cả chứng khoán không phản ánh chính xác giá trị công ty và chưa phân bổ một cách hiệu quả các nguồn lực. Ngoài ra, còn có một số hiện tượng tiêu cực khác trên TTCK như hiện tượng đầu cơ, mua bán nội gián, xung đột quyền lực…gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư. Thực tế này đặt lên vai các nhà quản lý thị trường phải có những biện pháp hiệu quả để giảm thiểu đến mức tối đa các tiêu cực trên thị trường nhằm đảm bảo cho tính hiệu quả của thị trường, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Như vậy ta thấy vai trò của TTCK đã được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Vai trò này có thực sự được phát huy hay không nó phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường. 1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK TTCK là một thực thể phức tạp mà hoạt động của thị trường có nhiều loại chủ thể khác nhau tham gia. Các chủ thể này hoặc là bán chứng khoán, hoặc là mua chứng khoán, hoặc chỉ là trung gian môi giới cho hai bên mua bán để hưởng hoa hồng. Bên cạnh đó còn có các chủ thể quản lý là Nhà nước và các tổ chức phụ trợ. 1.1.3.1. Chủ thể quản lý Chủ thể quản lý có nghĩa vụ bảo đảm cho TTCK hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm cho việc mua bán chứng khoán trên thị trường diễn ra một cách công khai, công bằng, tránh những yếu tố tiêu cực có thể xảy ra, từ đó bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Hiện nay hầu hết các nước có TTCK đều có cơ quan quản lý và giám sát về chứng khoán và TTCK. Với những tên gọi khác nhau (tuỳ theo mỗi nước) nhưng thường là UBCK Quốc gia, bên cạnh đó còn có Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, các Sở giao dịch chứng khoán. Ở mỗi quốc gia, với những đặc trưng riêng có mà có những hình thức quản lý khác nhau và thiết lập nên những cơ quan quản lý khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, UBCKNN đang trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan quản lý cao nhất về chứng khoán và TTCK. Theo đó, UBCKNN sẽ nghiên cứu vạch kế hoạch, dự thảo các văn bản pháp luật và các thể lệ chế độ về tổ chức và hoạt động TTCK để trình cấp có thẩm quyền quyết định ban hành. Đồng thời quản lý, giám sát hoạt động của TTCK, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để đảm bảo thị trường hoạt động tốt. Ngoài UBCKNN, các cơ quan quản lý khác như Ngân hàng Nhà nước, các Bộ, đặc biệt là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán cũng có vai trò rất lớn trong hoạt động quản lý các thành viên tham gia thị trường, và bảo vệ lợi ích cho các thành viên. 1.1.3.2. Chủ thể kinh doanh ( Trung gian tài chính ) Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK, TTCK hoạt động hiệu quả một phần là nhờ sự thủ vai tốt của các trung gian này. Với tư cách là nhà kinh doanh chứng khoán, họ thực hiện việc mua bán chứng khoán cho chính bản thân mình nhằm mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, họ còn đóng vai trò là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường thông qua các nghiệp vụ đại lý bão lãnh phát hành, tư vấn và môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Trên thực tế, các công ty chứng khoán tham gia với vai trò là nhà môi giới kinh doanh chứng khoán thường làm cả hai nghiệp vụ là môi giới để hưởng hoa hồng và tự doanh để tìm chêch lệch giá. Sự tham gia của các công ty chứng khoán này đã góp phần làm cho hoạt động của thị trường diễn ra liên tục, thúc đẩy sự phát triển của thị trường. 1.1.3.3. Các nhà đầu tư Chủ thể đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào TTCK bằng cách thực sự mua các chứng khoán đang được phát hành nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Chủ thể đầu tư trên thị trường có thể là tổ chức đầu tư hoặc các nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư cá nhân chính là công chúng, một loại chủ thể có khả năng cung cấp một khối lượng tiền tệ rất lớn. Công chúng khi có vốn tạm thời nhàn rỗi, họ tham gia mua chứng khoán với mục đích đầu tư kiếm lời. Khi có nhu cầu vốn họ đem bán lại các chứng khoán đã mua trên thị trường thứ cấp. Họ tham gia thị trường bằng nhiều cách khác nhau có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Nhà đầu tư có tổ chức, có thể là các NHTM, công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ, công ty quản lý quỹ…họ thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Các tổ chức đầu tư thường đầu tư theo danh mục và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm cao, mang tính chuyên nghiệp. Vai trò của các tổ chức đầu tư này ở các nước có TTCK phát triển ngày càng to lớn. 1.1.3.4. Tổ chức phát hành chứng khoán. Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các tổ chức tài chính trung gian khác, và các doanh nghiệp. Trong số đó chủ yếu là Chính phủ và các doanh nghiệp. Các chủ thể phát hành tham gia huy động vốn bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau. Chính phủ phát hành các chứng khoán như: Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho bạc nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách, xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu cống, đường xá… Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty nhằm đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh…Các doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người tạo ra hàng hoá ở thị trường sơ cấp, và mua bán lại các chứng khoán ở thị trường thứ cấp. 1.1.3.5. Các tổ chức phụ trợ Sự tham gia của các tổ chức phụ trợ giúp cho hoạt động của thị trường diễn ra trôi chảy, đó là Trung tâm Lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm… Như vậy, có thể thấy rằng TTCK hoạt động được là nhờ hoạt động của các chủ thể tham gia. Tuy khác nhau về tính chất, mục tiêu và cách làm, hoạt động của họ liên đới và bổ sung chặt chẽ cho nhau, nhờ thế tài sản tài chính từ sở hữu của người này chuyển sang sở hữu của người khác một cách hợp lý và hài hoà để nền kinh tế hoạt động với những giá trị mới được tạo ra từng giờ, mỗi ngày. 1.1.4. Phân loại TTCK. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại TTCK theo các tiêu thức khác nhau, có thể phân loại theo hàng hoá, phân loại theo cấu trúc tổ chức của thị trường hay phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. Trong bài nghiên cứu này, người viết sẽ phân loại theo cấu trúc tổ chức thị trường. Theo đó, TTCK được phân thành 3 loại thị trường sau: Sở giao dịch chứng khoán: Tại đây, người mua và người bán (hoặc môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch, mua bán chứng khoán. Vì vậy người ta còn gọi Sở giao dịch là thị trường tập trung – là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức tuân theo những luật lệ nhất định, là nơi tiến hành giao dịch chứng khoán của những công ty lớn, làm ăn có hiệu quả. Như vậy, Sở giao dịch chứng khoán không tham gia vào việc mua bán chứng khoán mà chỉ là nơi giao dịch, một trung tâm tạo điều kiện cho các giao dịch được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng. Đồng thời, Sở giao dịch cũng là cơ quan thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt động diễn ra trên thị trường tập trung nhằm tạo điều kiện để các giao dịch được thực hiện công bằng, minh bạch và đúng pháp luật. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi UBCKNN. Thị trường phi tập trung (Thị trường OTC): Tại hầu hết các nước, bên cạnh thị trường giao dịch tập trung, nơi diễn ra các hoạt động giao dịch chứng khoán của những công ty lớn, còn có thị trường phi tập trung (OTC) chủ yếu dành cho việc giao dịch chứng khoán của những DNV&N chưa hội đủ các điều kiện niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung. Thị trường OTC đại diện cho một thị trường thương lượng, nơi mà người bán và người mua trực tiếp thương lượng với nhau về những điều kiện chủ yếu của giao dịch như số lượng, giá… Có thể nói rằng, OTC là thị trường của những nhà tạo lập thị trường - những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Các nhà tạo lập thị trường nắm trong tay một lượng chứng khoán đủ lớn và họ sẵn sàng mua bán chứng khoán với nhau cũng như với các nhà đầu tư khi họ chấp nhận được giá cả của họ. Tương tự như hệ thống thị trường tập trung, thị trường OTC thường được tổ chức theo 2 cấp: cấp quản lý Nhà nước và cấp tự quản. Như vậy, trong TTCK để huy động vốn cho các doanh nghiệp, Sở giao dịch là nơi giao dịch chứng khoán của những doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp này có khả năng đáp ứng được những quy định niêm yết ngặt nghèo về vốn, tình hình hoạt động kinh doanh…trên Sở, mà những DNV&N thường không đáp ứng đủ. Còn đại bộ phận cổ phiếu của các DNV&N được giao dịch trên thị trường OTC, ở đó những tiêu chuẩn niêm yết thường thấp hơn trên Sở giao dịch. Hay nói khác đi, TTCK cho các DNV&N là
Luận văn liên quan