Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận buồm xuôi gió” vẫn còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp thương mại” hay “tranh chấp kinh doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Ngay từ năm 1994, hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại cũng đã đưa ra một số khái niệm khác nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Tuy không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế nhưng cũng đã liệt kê được các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế. Đến năm 1999, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong Luật thương mại ngày 10/5/1999. Năm 2003, Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/2/2003 tuy không đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại nhưng thông qua khái niệm về “hoạt động thương mại” đã tạo được sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế; từ đó mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản pháp luật khi đề cập đến lĩnh vực thương mại, tranh chấp thương mại – một lĩnh vực đầy sôi nổi và phức tạp. Tiếp đó, đến năm 2004, điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 đã đưa ra khái niệm “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” và liệt kê những nội dung của loại tranh chấp này, thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại 2005. Tuy có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật thời gian gần đây là khá nhất quán.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5598 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận buồm xuôi gió” vẫn còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp thương mại” hay “tranh chấp kinh doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Ngay từ năm 1994, hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại cũng đã đưa ra một số khái niệm khác nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Tuy không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về tranh chấp kinh tế nhưng cũng đã liệt kê được các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án kinh tế và trọng tài kinh tế. Đến năm 1999, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong Luật thương mại ngày 10/5/1999. Năm 2003, Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/2/2003 tuy không đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại nhưng thông qua khái niệm về “hoạt động thương mại” đã tạo được sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế; từ đó mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản pháp luật khi đề cập đến lĩnh vực thương mại, tranh chấp thương mại – một lĩnh vực đầy sôi nổi và phức tạp. Tiếp đó, đến năm 2004, điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 đã đưa ra khái niệm “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” và liệt kê những nội dung của loại tranh chấp này, thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại 2005. Tuy có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật thời gian gần đây là khá nhất quán.
Tóm lại, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân với nhau; ngoài ra trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại như: tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau...
Tìm hiểu về tranh chấp thương mại là cơ sở quan trọng để tìm hiểu và áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam tồn tại 4 phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm:
Thương lượng;
Hòa giải;
Trọng tài thương mại;
Tòa án.
Cả 4 phương thức này đều có những ưu điểm và tầm quan trọng riêng của nó. Nhưng trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng em xin phép tìm hiểu riêng về hình thức trọng tài thương mại, từ đó nghiên cứu sâu thêm về thẩm quyền của trọng tài thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
NỘI DUNG CHÍNH
I/ Khái quát chung về trọng tài thương mại:
1/ Khái niệm trọng tài thương mại:
Khi xảy ra tranh chấp trong kinh doanh, doanh nghiệp sẽ cần đến việc phân xử. Hiện nay có 2 phương pháp giải quyết bằng tài phán là tòa án và trọng tài thương mại. Trên thế giới, tại các nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Vậy chúng ta cần phải hiểu trọng tài thương mại là gì? Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa ra một khái niệm cụ thể về trọng tài thương mại nhưng ta có thể hiểu: Trọng tài thương mại là hình thức tài phán mà quyền lực của nó được tạo nên bởi chính các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại. Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, pháp luật quy định nguyên tắc loại trừ thẩm quyền của tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
2/ Các hình thức trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.
2.1/ Trọng tài vụ việc:
Có thể định nghĩa rằng, trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đây là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới.
Từ định nghĩa trên, ta có thể rút ra được một số đặc điểm của trọng tài vụ việc như sau:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tựng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Ở Việt Nam, hình thức trọng tài vụ việc lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh trọng tài thương mại một cách cụ thể, rõ ràng về cách thức hình thành, quy trình tố tụng cũng như giá trị của pháp quyết và cơ chế đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài vụ việc. Có thể khẳng định rằng, diện mạo của trọng tài vụ việc ở Việt Nam được khắc họa rõ nét kể từ khi ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
2.2/ Trọng tài thường trực:
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện trọng tài nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản về hình thức trọng tài này như sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. Thể hiện:
- Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành lập bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
- Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước.
- Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
- Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài...
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể:
- Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
- Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham giai vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Thể hiện:
- Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
- Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
3/ Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại là một trong 4 hình thức giải quyết tranh chấp thương mại. Đây là một hình thức giải quyết tranh chấp khá đơn giản, nhanh chóng và có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, để áp dụng hình thức này trong việc giải quyết tranh chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ một số những nguyên tắc cơ bản sau:
3.1/ Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài:
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực. Theo điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì quyết định của hội đồng sẽ bị hủy. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không có nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở thành vô nghĩa và không cần thiết. Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc cần áp dụng trước tiên khi tiến hành xem xét một vụ tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại.
3.2/ Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan:
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện hoặc chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Điều này cho thấy, việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, tính độc lập của các trọng tài viên đối với các bên là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trọng tài viên phải có đủ cách điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Để trở thành một trọng tài viên của một trung tâm trọng tài, công dân Việt Nam cần hội tụ đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 12 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như không có bất kỳ lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm những quy định trên, trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài viên vụ tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào các tình tiết của vụ tranh chấp, xác mình sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các chứng cứ mà mình thu thập được chứ không thể bị chi phố bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Không ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của trọng tài viên. Quyết định của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
Tại điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 còn quy định: Nếu trọng tài viên không vô tư, không khách quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên đó sẽ bị hủy bỏ.
3.3/ Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật:
Đây được coi là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng cũng như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp quyền. Vì vậy, để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên – người được các bên có tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp phải căn cứ theo pháp luật.
Nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài. Tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan. Có như vậy mới được các nhà kinh doanh tín nhiệm.
3.4/ Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên:
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Có thể thấy rằng, thông qua thỏa thuận trọng tài, quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho họ. Cụ thể như:
Các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng nào nào, hình thức trọng tài nào thì chỉ có trung tâm trọng tài đó và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết.
Các bên lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có quyền giải quyết.
Các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết thì chỉ có trọng tài viên duy nhất đó có quyền giải quyết.
Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp.
Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải quyết.
Các bên có quyền thỏa thuận thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp là một trong những nguyên nhắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại. Và chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và trọng tài viên bắt buộc phải tuân theo.
3.5/ Nguyên tắc giải quyết một lần:
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà ngày nay, để các tranh chấp thương mại giữa các nhà kinh doanh có thể được giải quyết nhanh chóng và dứt điểm, các tổ chức trọng tài phi chính phủ đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó của các nhà kinh doanh.
Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.
Nếu quyết định của trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một trong các bên mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.
II/ Thẩm quyền của trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này có hiệu lực.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài, tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại, tranh chấp này phát sinh trong hoạt động thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và các bên có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Sau đây, trên cơ sở Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về thẩm quyền của trọng tài thương mại thông qua 2 điều kiện trên:
1/ Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phải là tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh:
Như ta đã biết, trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa 1 bên là thương nhân với một bên là các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân), nếu có phát sinh tranh chấp thì Luật thương mại 2005 cho phép bên có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi (bên có hành vi dân sự) có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải quyết.
Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Ví dụ như: tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty hay tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau thực chất là tranh chấp thương mại hiểu theo nghĩa rộng vì tranh chấp này phát sinh từ hoạt động đầu tư với mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, loại tranh chấp nói trên không thuộc thẩm quyền của trọng tài vì không thỏa mãn điều kiện các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh (điều 2 Nghị định số 25/2004/NĐ – CP ngày 15/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh trọng tài thương mại) và