Quá trình hình thành, ra đời đồng EURO của liên minh kinh tế & tiền tệ châu Âu - Tác động của nó đến nền kinh tế thế giới & Việt Nam

Từ giữa thập kỷ 80 đến nay, xu hướng hình thành các khối kinh tế khu vực ngày càng phát triển, tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế thế giới, trong đó nổi bật nhất là Liên minh Châu Âu (EU). EU là quá trình hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia độc lập về chính trị ở Châu Âu, lớn nhất trong khối các nước tư bản chủ nghĩa. EU được thành lập năm 1957, đến nay bao gồm 15 nước thành viên: Đức, Pháp, Anh, Italia, Hà Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Hy Lạp, Luychxambua, Ailen, Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển. Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu đang trở thành một "cực" rất mạnh của nền kinh tế thế giới, thúc đẩy việc thống nhất tiền tệ để thành lập và hoàn thiện thị trường chung Châu Âu. Thống nhất tiền tệ đã và đang diễn ra ở Châu Âu. Mặc dù là sự kiện riêng của Châu Âu, song nó có tác động đến toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thống nhất tiền tệ Châu Âu có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không những cho phép chúng ta nhìn nhận một cách khách quan về sự thích ứng của nền kinh tế các nước trên thế giới trong điều kiện mới của tái sản xuất xã hội và trong bối cảnh kinh tế quốc tế đang biến đổi, mà còn cung cấp những căn cứ, hình thức cụ thể của loại hình liên kết này như là cơ sở chủ yếu của quan hệ kinh tế mà các nước Châu Âu đã và đang thực hiện. Do hiểu biết còn hạn chế, cho nên bản đề án này chỉ tổng hợp được những thông tin về quá trình hình thành, ra đời của đồng EURO của Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu, và phân tích những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Người viết xin được chia bản đề án thành ba phần: Phần I: Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO. Phần II: Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế thế giới. Phần III: Các vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi.

doc33 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5979 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình hình thành, ra đời đồng EURO của liên minh kinh tế & tiền tệ châu Âu - Tác động của nó đến nền kinh tế thế giới & Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Từ giữa thập kỷ 80 đến nay, xu hướng hình thành các khối kinh tế khu vực ngày càng phát triển, tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế thế giới, trong đó nổi bật nhất là Liên minh Châu Âu (EU). EU là quá trình hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia độc lập về chính trị ở Châu Âu, lớn nhất trong khối các nước tư bản chủ nghĩa. EU được thành lập năm 1957, đến nay bao gồm 15 nước thành viên: Đức, Pháp, Anh, Italia, Hà Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Hy Lạp, Luychxambua, Ailen, Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển. Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu đang trở thành một "cực" rất mạnh của nền kinh tế thế giới, thúc đẩy việc thống nhất tiền tệ để thành lập và hoàn thiện thị trường chung Châu Âu. Thống nhất tiền tệ đã và đang diễn ra ở Châu Âu. Mặc dù là sự kiện riêng của Châu Âu, song nó có tác động đến toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thống nhất tiền tệ Châu Âu có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không những cho phép chúng ta nhìn nhận một cách khách quan về sự thích ứng của nền kinh tế các nước trên thế giới trong điều kiện mới của tái sản xuất xã hội và trong bối cảnh kinh tế quốc tế đang biến đổi, mà còn cung cấp những căn cứ, hình thức cụ thể của loại hình liên kết này như là cơ sở chủ yếu của quan hệ kinh tế mà các nước Châu Âu đã và đang thực hiện. Do hiểu biết còn hạn chế, cho nên bản đề án này chỉ tổng hợp được những thông tin về quá trình hình thành, ra đời của đồng EURO của Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu, và phân tích những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Người viết xin được chia bản đề án thành ba phần: Phần I : Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu - EURO. Phần II : Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế thế giới. Phần III : Các vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi. Tác giả rất mong được tiếp thu những chỉ dẫn và ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn. Xin trân trọng cảm ơn! PHẦN I LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU EURO. I. Kinh tế của EMU-11 trong thời gian qua Từ đầu thập kỷ 70 người ta đã nói đến Liên minh Châu Âu (lúc đó mới chỉ có 9 nước thành viên) như một trong ba trung tâm kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản thế giới. Ngày nay tình hình thế giới đã thay đổi căn bản, thế giới hai cực đã tan rã và nhường chỗ cho một thế giới mới đa cực, trong đó có các nước thành viên Liên minh Châu Âu (EU) có vị trí và vai trò rất quan trọng. Về kinh tế, Liên minh Châu Âu được coi là một trong ba trụ cột của kinh tế thế giới cùng với Bắc Mỹ và Đông Á. Ở đây tập trung tới bốn trong số bảy nước công nghiệp phát triển nhất của thế giới (Đức, Pháp, Italia, Anh). Theo đánh giá của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tốc độ tăng GDP thực tế của EU năm 1998 đạt 2,9% (thấp hơn so với dự báo 0,2% và thấp hơn so với mức tăng trưởng 3,4% của Mỹ).Tuy nhiên, đây lại là tốc độ tăng trưởng cao nhất mà EU đạt được từ năm 1991 tới nay (so với 2,4% năm 1995, 1,7% năm 1996, 2,7% năm 1997). Trong bối cảnh tăng trưởng khá, các nước EU vẫn tiếp tục kiềm chế tốt lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của EU là 1,7%. Đây là mức thấp kỷ lục trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù vẫn còn khá cao so với G-7 là 1,4%, Mỹ 1,6%, Nhật 0,4%. Tình hình thất nghiệp ở EU đã được cải thiện. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống còn 10,3% so với mức 10,6% năm 1997. Các chuyên gia tài chính của EU cho rằng nguyên nhân chủ yếu làm kinh tế EU tăng trưởng là nhu cầu trong nước vẫn mạnh. Tổng cầu nội địa của EU năm 1998 tăng 2,9% cao nhất kể từ năm 1991. Trong đó chủ yếu là do tăng đầu tư tư bản cố định (tăng 4,5%), còn chi cho tiêu dùng tư nhân tăng 2,7%, tiêu dùng của Chính phủ chỉ tăng 1,6%. Cầu nội địa ở phần lớn các nước EU đang bắt đầu thay thế xuất khẩu ròng đóng vai trò là động lực chính của sự tăng trưởng. Có thể nói, sự tăng trưởng kinh tế và việc làm ở khu vực EU trong năm 1998 là do quá trình tự do hoá kinh tế ở các nước này trong những năm gần đây đã phát huy tích cực. Thị trường lao động ở các nước EU đã linh hoạt hơn. Các công ty thuê công nhân theo hợp đồng bán phần, nhất là trong các ngành công nghệ mới. 85% số lao động mới thuê của Pháp là theo hợp đồng ngắn hạn. Hơn 5,4 triệu công nhân Đức đang làm việc trên cơ sở các hợp đồng bán phần, so với 3,9 triệu năm 1991.Bằng các hợp đồng lao động bán phần, các công ty sẽ không phải đóng tiền vào quỹ phúc lợi xã hội. Ngoài ra, nhiều nước còn tiến hành cải tổ hệ thống phúc lợi xã hội, nới lỏng các quy định về mức lương giờ làm việc, ngày làm việc và thải hồi công nhân. Điều đó cho phép các doanh nghiệp tăng đầu tư trong nước, đồng thời tăng mức độ sử dụng lao động. Việc làm ở EU trong năm 1997 chỉ tăng 0,6%, còn trong năm 1998 tăng 1,2%. BẢNG SỐ 1: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA EMU-11 Tên nước  Diện tích (km2)  Dân số (triệu người)  Đơn vị tiền tệ  Bội chi NSNN/GDP  Nợ Nhà nước/GDP  Lạm phát       1997  1998  1997  1998  1997  1998   Ai-len  70.280  3,6  Livre Ailen  - 0,8  - 0,8  67,5  65,0  1,7  2,1   Áo  83.849  8,1  Schilling  - 2,5  - 2,5  68,0  67,6  1,5  1,6   Bồ Đào Nha  92.080  9,9  Escudo  - 2,9  - 2,9  62,9  61,7  2,2  2,3   Bỉ  28.870  10,2  Franc Bỉ  - 2,8  - 2,6  125,1  122,8  1,6  1,9   Đức  356.755  81,7  Deutsche Mark  - 3,1  - 2,9  62,2  62,7  1,9  2,3   Hà Lan  33.860  15.5  Florin  - 2,1  - 1,8  73,6  71,2  2,3  2,3   Italia  301.225  57,7  Lire  - 3,2  - 3,0  122,9  121,2  1,8  2,1   Luychxambua  2.586  0,4  Franc Luychxambua & Franc Bỉ  - 0,1  - 0,1  5,7  5,5  2,0  2,0   Pháp  549.192  58,1  Franc Pháp  - 3,2  - 3,2  57,7  59,2  1,1  1,3   Phần Lan  337.000  5,1  Markka  - 1,9  - 0,4  59,4  57,9  1,3  2,3   Tây Ban Nha  504.580  39,1  Peseta  - 3,0  - 2,6  69,0  68,2  2,0  2,2   Cộng EU-11  2.360.277  289,4  Euro         (nguồn: Báo Tài chính 98) II. Quá trình chuẩn bị ra đời đồng Euro 1. Cơ sở khoa học của sự thống nhất tiền tệ Châu Âu: Jacques Rueff - chuyên gia tiền tệ người Pháp đã nói "hoặc là Châu Âu hình thành nhờ tiền tệ hoặc là không có Châu Âu". Đến nay, mặc dù đã 47 năm trôi qua nhưng quan điểm trên của Jacques Rueff vẫn được coi là khẩu hiệu mỗi khi bàn đến Liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ Châu Âu. Có thể nói, sự ra đời, phát triển của liên kết kinh tế Châu Âu mà đỉnh cao là việc thống nhất tiền tệ Châu Âu là một tất yếu khách quan không chỉ do đòi hỏi của sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, mà còn do đòi hỏi của sự phát triển của chính các quan hệ tiền tệ quốc tế. Ngay từ cuối những năm 50, hoạt động gửi tiền ở hải ngoại được hiểu đơn giản là những khoản tiền gửi được định danh bằng ngoại tệ, tức là không phải đồng tiền của nơi đặt ngân hàng đó. Các khoản tiền gửi hải ngoại này thường được gọi là các đồng tiền Châu Âu (Eurocurrencies). Cách gọi như vậy là không chính xác, bởi vì phần lớn sự buôn bán các đồng tiền Châu Âu lại xảy ra ở các trung tâm tài chính ngoài Châu Âu như Singapore và Hongkong. Các khoản tiền gửi USD vào các ngân hàng ở ngoài nước Mỹ gọi là Đôla Châu Âu (Eurodollar). Các ngân hàng nhận tiền gửi bằng các đồng tiền Châu Âu (kể cả Đôla Châu Âu) gọi là các Ngân hàng Châu Âu (Eurobanks). Đôla Châu Âu là một phản ứng đối với những nhu cầu nảy sinh do sự tăng trưởng thương mại quốc tế, quy định điều tiết về tài chính và những cân nhắc chính trị. Cho đến những năm 60, hệ thống Đôla Châu Âu đã phát triển mạnh. Cùng thời gian đó, hai nhà kinh tế học người Mỹ R.Mundell và R. Mc Kinnon đã đưa ra lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu", xuất phát từ định hướng khi đó của khối EEC là nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động tức là lưu chuyển tự do các "yếu tố sản xuất". Lý thuyết này đề cập đến những cơ sở của sự thống nhất tiền tệ Châu Âu và gây được sự chú ý lớn. Theo R. Mundell và R. Mc Kinnon "Khu vực tiền tệ tối ưu" là lãnh thổ bao gồm những nước cùng chung những điều kiện, khả năng thích hợp nhất để sử dụng một loại tiền tệ thống nhất, hoặc chung những khả năng để thiết lập một đồng giá vững chắc giữa các đồng tiền của quốc gia mình. Và khu vực tiền tệ sẽ là "tối ưu" nếu trong lãnh thổ đó tồn tại những khả năng cơ động giữa các "yếu tố sản xuất". Trong nội bộ EEC việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động được tự do hoàn toàn và có sự thoả hiệp giữa các nước thành viên về các vấn đề kinh tế - chính trị, sự phối hợp các thể chế, chính sách kinh tế. Nhưng tiêu chí quan trọng nhất là sự chấp nhận của các nước thành viên hy sinh tính độc lập của mình trong việc giải quyết những vấn đề tiền tệ - tín dụng. Một trong những điều kiện cho sự tồn tại của "Khu vực tiền tệ tối ưu" là tốc độ lạm phát giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi các chính sách về ngân sách, kinh tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, phải đạt được những mục đích như ổn định giá cả, có việc làm đầy đủ và sự cân bằng trong cán cân thanh toán, tức là phải đạt được sự cân đối bên trong và bên ngoài. Điều quan trọng nhất là đồng tiền của EEC phải dựa trên cơ sở của mọi đồng tiền ở các nước thành viên và phải tính đến sự thay đổi tỷ giá các loại tiền chứ không phải đến sức mua của đồng tiền mạnh nhất. Nhưng trước hết, đó phải là một đơn vị tiền tệ đang lưu thông đồng thời với các đơn vị tiền tệ Châu Âu khác; được phép có những thay đổi đồng giá và dao động của tỷ giá tiền tệ. Khi các quy chế về tiền tệ tài chính đã thống nhất và có sự phối hợp của chính sách tiền tệ thì các dao động của tỷ giá tiền tệ sẽ bị xoá bỏ. Lúc đó, một Liên minh kinh tế và tiền tệ cũng được thành lập, đồng tiền của các nước cũng sẽ bị huỷ bỏ và thay vào đó là một đồng tiền thống nhất. Thực chất của quan điểm này là sự biểu hiện cách tiếp cận thiết chế đối với vấn đề thống nhất tiền tệ. Cách tiếp cận này chú trọng đến việc tăng cường các biện pháp điều tiết liên quốc gia và siêu quốc gia trong lĩnh vực tiền tệ, đến sự phối hợp chính sách kinh tế của các nước thành viên, hạn chế chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tiền tệ và thiết lập các thiết chế siêu quốc gia. Với cơ cấu "tầng" của liên kết kinh tế có thể vạch ra thứ bậc quy ước cho các xu hướng trong chính sách kinh tế của các quốc gia Tây Âu như sau: Mô hình số 1: Các "tầng" của liên kết kinh tế. Hình chóp là liên kết kinh tế nói chung, hình chóp ở mặt đỉnh là hình chóp abcde là một bộ phận của nó được hình thành nhờ quá trình liên kết tiền tệ. Thống nhất tiền tệ chỉ bao gồm hình chóp abcde chứ không tiếp cận với các tầng khác. Để thực hiện được Liên minh tiền tệ không chỉ cần đến phối hợp, thống nhất chính sách tiền tệ, mà còn phải phối hợp các loại hình chính sách kinh tế nào đó nằm ở các "tầng" thấp của hình chóp. Các "tầng" này càng cao bao nhiêu thì sự phối hợp các chính sách kinh tế đó càng phải được thực hiện chặt chẽ bấy nhiêu. Để đạt được một Liên minh tiền tệ cần khắc phục những bất đồng về mục đích mà mỗi quốc gia tự đặt ra cho mình để thực thi chính sách kinh tế quốc gia. Những mục đích đó tạo thành "đa giác nhiệm mầu" Mô hình số 2: Đa giác "mầu nhiệm" các mục tiêu điều chỉnh độc quyền Nhà nước đối với nền kinh tế. a.Giảm tốc độ lạm phát. b.Đạt sự cân bằng trong cán cân thanh toán. c.Tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững. d.Giảm thất nghiệp. e.Duy trì tỷ giá tiền tệ. Đa giác abcde là một phương án lý tưởng không thể đạt tới. Đa giác a’b’c’d’e' là phương án hạ sách nhất, không đạt được mục tiêu nào cả. Giữa hai phương án này là vô số các phương án khác nhau, khi một hoặc một số mục tiêu nào đó đạt được thì những mục tiêu còn lại ít nhiều bị tổn hại. Mục tiêu của các nước EEC là đạt được một quan điểm thống nhất về đa giác anbncndnốn. Theo ý kiến của các nhà khởi xướng ra hệ thống tiền tệ Châu Âu, hoạt động của hệ thống này phải đem lại sự cân bằng tình trạng mất cân đối trong phạm vi khu vực giữa các nước và các vùng lãnh thổ thuộc EEC. Để làm được điều này, cần phân phối lại các nguồn tài chính vì lợi ích của những nước kém phát triển hơn. 2. Tiến trình phát triển của hệ thống tiền tệ Châu Âu: Trong văn bản Hiệp ước Rôma và Định ước Châu Âu duy nhất đã ghi nhận thị trường nội địa Châu Âu, nhưng cho tới Hiệp ước về Liên minh Châu Âu ở Maastricht, Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu mới được chính thức ghi nhận. Mục tiêu của Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu là thống nhất Châu Âu trong lĩnh vực tiền tệ. Đây là một quá trình lâu dài với nhiều thành công và thất bại. Vào thời điểm thành lập Cộng đồng Châu Âu, nay gọi là Liên minh Châu Âu, ít có chính khách Châu Âu nào để ý đến việc thành lập một khu vực tiền tệ riêng của Châu Âu. Bởi vì lúc đó tiền tệ nói chung được điều chỉnh bằng những tỷ giá nhất định trong Hệ thống Tiền tệ Bretton Woods. Hệ thống này lại đang vận hành khá tốt. Hiệp ước Rôma chỉ có một vài điều khoản liên quan đến việc hợp tác các chính sách tiền tệ, các chính sách hối đoái và thành lập một uỷ ban tiền tệ để đưa ra các ý kiến về lĩnh vực này. Kết quả là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên trong Cộng đồng Châu Âu tăng lên đã thúc đẩy sự hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ. Và năm 1964, Uỷ ban Thống đốc các ngân hàng trung ương ra đời. Sự ra đời của Uỷ ban này đã hình thành một khuôn khổ cho các cuộc tham khảo ý kiến thường xuyên về vấn đề tiền tệ giữa các nước Cộng đồng Châu Âu.Tuy nhiên, sức ép đẩy các nước Châu Âu co cụm lại với nhau trong vấn đề này chỉ thực sự tăng lên vào cuối những năm 1960 đầu những năm 1970 khi mà Hệ thống Tỷ giá chuyển đổi cố định Bretton Woods bắt đầu rạn nứt và sụp đổ. Vào tháng 1 -1970, Uỷ ban Werner (tên của Thủ tướng Luýchxămbua) đã đưa ra một kế hoạch đầy tham vọng: lập ra một "Liên minh kinh tế và tiền tệ" trong vòng 10 năm. Sau thời hạn đó, Cộng đồng Châu Âu sẽ là một thực thể tiền tệ riêng biệt trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Các đồng tiền của các nước thành viên sẽ có khả năng chuyển đổi và có tỷ giá cố định đối với nhau. Đồng thời các thể chế của Cộng đồng sẽ được trao cho những quyền hành cần thiết để có thể đưa ra các quyết định về chính sách kinh tế. Kế hoạch Werner trong giai đoạn đầu dự định tăng cường phối hợp các chính sách đối phó với bối cảnh kinh tế và giảm biên độ dao động giữa tỷ giá các đồng tiền của sáu nước. Thế nhưng kế hoạch đầy tham vọng này đã tiêu tan trước một loạt các biến cố xảy ra trong nền kinh tế và chính trị thế giới. Ngày 15 - 8 - 1971, cùng với sự tan vỡ của Hệ thống tiền tệ Bretton Woods và việc Mỹ chấm dứt chế độ chuyển đổi dollar ra vàng đã gây rối loạn thị trường tiền tệ thế giới. Cho đến ngày 18 - 12- 1971, Hiệp định Oasinhtơn ra đời quy định sự giảm giá của đồng dollar so với vàng và một loạt tỷ giá của các loại đồng tiền so với đồng dollar, mở rộng biên độ dao động của mỗi đồng tiền so với đồng dollar từ +_1% đến +_2,25% so với tỷ giá chính thức. Hệ quả của Hiệp định Oasinhtơn đối với các đồng tiền Châu Âu là làm cho các biên độ dao động giữa chúng với nhau có thể trở nên rất lớn, dẫn đến sự bất ổn trong hoạt động xây dựng thị trường chung. Do đó, đến tháng 4-1972, các nước Châu Âu quyết định giới hạn mức dao động của tỷ giá các đồng tiền này so với hệ thống tỷ giá chỉ đạo (hay tỷ giá trung tâm) ở mức tối đa là +_2,25%. Để đảm bảo biên độ này, mỗi một ngân hàng trung ương sẽ phải can thiệp khi dao động của đồng tiền nước mình quá giới hạn cho phép. Cơ chế này tạo ra biểu đồ biến động của các đồng tiền Châu Âu như một "con rắn". Sự kết hợp giữa Hiệp định Oasinhtơn và Hiệp định Balơ tạo thành cơ chế tiền tệ Tây Âu được gọi là "con rắn trong đường hầm". Mô hình số 3: "Con rắn" trong "đường hầm" (2) 5,554 (1) (4) (3) Tiến trình của năm 1972. Trục của đường hầm. Biên trên Biên dưới Trao đổi ngang giá cố định của mỗi loại tiền tính bằng dollar. "Con rắn" di chuyển trong "đường hầm" tạo bởi các biên độ đối với đồng dollar. Cơ chế "con rắn" tiền tệ sớm tỏ ra ít có hiệu quả, vì nó không dựa vào sự phối hợp chính sách tiền tệ và kinh tế của tất cả các nước trong Cộng đồng. Đợt khủng hoảng mới của đồng dollar Mỹ tháng 3-1973 đã khiến "con rắn" phải chui ra khỏi "đường hầm". Sáu nước Cộng đồng Châu Âu quyết định thả nổi tập thể đối với đồng dollar (biên độ dao động giữa tỷ giá đồng tiền của các nước này vẫn giữ tối đa là +_2,25%), đồng thời lập Quỹ hợp tác tiền tệ Châu Âu (FECOM). Nhưng sự biến động của thị trường tiền tệ thế giới, cùng với cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã khiến Anh, Ailen, Italia và Pháp lần lượt rút ra khỏi "Con rắn tiền tệ Châu Âu". "Con rắn" lúc đó trên thực tế biến thành một khu vực đồng Mác bao gồm các nước Đức, Đan mạch, Bỉ, Hà Lan, Luýchxămbua. Để đảm bảo sự phát triển kinh tế, tháng 12-1978 một cơ chế tiền tệ mới gọi là "Hệ thống tiền tệ Châu Âu" (EMS) đã được hoạch định và ngày 13-3-1979 bắt đầu hoạt động. Mục tiêu của EMS là hình thành trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế Châu Âu một "khu vực ổn định" với đồng tiền riêng của nó, nhằm tạo ra đối trọng đối với hệ thống tiền tệ quốc tế mới dựa trên bá quyền của đồng dollar Mỹ; bảo vệ Cộng đồng trước sự bành trướng của đồng dollar Mỹ và tiến đến xoá bỏ dollar Mỹ trong các tài khoản Tây Âu. EMS bao gồm kinh nghiệm phát hành phương tiện thanh toán quốc tế nhân tạo-SDR, hệ thống cấp tín dụng kiểu "Swap", kinh nghiệm hoạt động của Hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods. Hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS) cũng như "con rắn tiền tệ" trước đây quy định các đồng tiền phải ràng buộc lẫn nhau theo những cự ly biến động có giới hạn được gọi là "mạng lưới tỷ giá". Mô hình số 4: Mạng lưới tỷ giá 2 1.Mác Tây Đức 3 2.Franc Bỉ và Luýchxămbua. 3.Livre Ailen 1 4.Franc Pháp 5. Cuaron Đan Mạch 4 6. Guilden Hà Lan 7. Lire Italia. 6 5 7 Nói cách khác đi, cơ sở của Hệ thống tiền tệ Châu Âu là hệ thống tỷ giá Châu Âu. Hệ thống tỷ giá Châu Âu là một cơ chế mà EEC dùng để ổn định tỷ giá tiền tệ giữa các nước thành viên, tránh những biến động xấu ảnh hưởng đến việc buôn bán giữa các nước trong Cộng đồng. Điều này không đủ đảm bảo sự ổn định như mong muốn, vì thế Hệ thống tiền tệ Châu Âu đã lấy yếu tố cơ bản của nó là đơn vị tiền tệ Châu Âu mới gọi tắt là ECU (European Currency Unit) trùng với tên đồng tiền cổ của Pháp. ECU ra đời vào tháng 3-1979, là một đồng tiền tổng hợp các đồng tiền của các quốc gia thành viên cộng đồng, có thể ví nó như một "giỏ tiền tệ". Giá trị ECU tương đương với tổng số một số lượng cố định mỗi loại tiền trong cộng đồng. Số lượng này được xác định tuỳ theo tiềm lực kinh tế mỗi nước. Tức là ECU vừa dùng làm cơ sở xác định quan hệ của các đồng tiền khác nhau, vừa làm phương tiện thanh toán giữa các thành viên và làm vốn dự trữ. Như vậy, lần đầu tiên trên thế giới xuất hiện đồng tiền giấy siêu quốc gia. Và đến tháng 7-1985, Uỷ ban Châu Âu, Ngân hàng đầu tư Châu Âu và đại diện ngân hàng các nước thành viên đã thoả thuận đổi ECU ra vàng và các loại ngoại tệ khác thông qua Quỹ tiền tệ Châu Âu, cho phép ngân hàng trung ương của các nước thứ ba, các tổ chức quốc tế sử dụng đồng ECU làm lực lượng dự trữ không khống chế tỷ lệ cận trên và cận dưới của ECU trong việc vay nợ và thanh toán. Uỷ ban Châu Âu còn tiến hành phát hành công trái bằng ECU, sử dụng ECU để tài trợ cho ngoại thương, xuất nhập khẩu dầu mỏ giữa các nước trong khối với nhau. Để khống chế sự vận động hỗn loạn của tỷ giá, EMS sẽ can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm bảo đảm dao động được phép của các tỷ giá. Cơ chế cấp tín dụng hiện có để duy trì tỷ giá đã được tăng cường nhằm giúp các "đồng tiền yếu" trước những áp lực và các nguồn để cấp tín dụng ngắn hạn và trung hạn không hạn chế giữa các nước thành viên EEC. Và sau hai năm hoạt động của EMS , Quỹ tiền tệ Châu Âu (EMF) đã được thành lập vào năm 1981. Sự thành lập EMF là một bước tiến quan trọng trên con đường đi tới thống nhất kinh tế, tiền tệ, tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình lưu thông hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Hệ thống tiền tệ