Đài truyền hình Việt nam là cơ quan báo chí đặc biệt trực thuộc sự quản lý của thủ tướng Chính phủ. Ngày nay cùng với sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ thuật đặc biệt là các thiết bị truyền hình, viễn thông, vệ tinh và truyền hình cáp, đã làm cho các sản phẩm truyền hình trở thành đại chúng với mọi người dân. Đài truyền hình Việt nam là loại báo hình có ưu thế lớn hơn tất cả các loại hình báo chí khác do tính đặc thù rất lớn trong thông tin truyền tài, vì vậy đã có sức thu hút đông đảo quần chóng quan tâm theo dõi.
Chính vì những đặc điểm này mà Đài truyền hình Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng tư tưởng chính trị, đường lối, chủ trương chính sách lãnh đạo của Dảng và Nhà nước đối với mọi người dân. Bên cạnh đó ngàn truyền hình còn đóng một vai trò khác không kém phần phân trọng đó là thông tin nhanh chóng các vấn đề thời sự, kinh tế - xã hội, văn hoá thể thao đến người dân một cách đầy đủ, toàn diện, đóng vai trò to lớn trong đời sống tinh thần, văn hoá với mọi người dan. Không những thế, truyền hình còn là công cụ đắc lực để nâng cao dân trí, phát triển kinh tế đặc biệt là đối với những người dân ở vùng sâu, vùng xa.
Nhằm phát triển ngành truyền hình Việt Nam trong 20 năm tới và sau đó đưa đài truyền hình Việt nam sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới, thời gian qua Đài truyền hình Việt nam không những quan tâm tới các dự án phát triển truyền hình trên phạm vi toàn ngành. Ban quản lý dự án trung tâm truyền hình Việt Nam là đơn vị chịu trách nhiệm với tất cả các hoạt động đầu tư của toàn ngành, nhằm đạt hiệu quả cao nhất, thời gian qua, đài truyền hình Việt Nam và ban quản lý dự án trung tâm truyền hình Việt Nam đã không ngừng củng cố kiện toàn bộ máy cũng như các hoạt động của mình nhằm đưa ngành truyền hình Việt Nam nói chung phát triển
47 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4600 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình hình thành và phát triển của đài truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo thực tập
Đài truyền hình Việt nam MỞ ĐẦU
Đài truyền hình Việt nam là cơ quan báo chí đặc biệt trực thuộc sự quản lý của thủ tướng Chính phủ. Ngày nay cùng với sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ thuật đặc biệt là các thiết bị truyền hình, viễn thông, vệ tinh và truyền hình cáp,… đã làm cho các sản phẩm truyền hình trở thành đại chúng với mọi người dân. Đài truyền hình Việt nam là loại báo hình có ưu thế lớn hơn tất cả các loại hình báo chí khác do tính đặc thù rất lớn trong thông tin truyền tài, vì vậy đã có sức thu hút đông đảo quần chóng quan tâm theo dõi.
Chính vì những đặc điểm này mà Đài truyền hình Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng tư tưởng chính trị, đường lối, chủ trương chính sách lãnh đạo của Dảng và Nhà nước đối với mọi người dân. Bên cạnh đó ngàn truyền hình còn đóng một vai trò khác không kém phần phân trọng đó là thông tin nhanh chóng các vấn đề thời sự, kinh tế - xã hội, văn hoá thể thao đến người dân một cách đầy đủ, toàn diện, đóng vai trò to lớn trong đời sống tinh thần, văn hoá với mọi người dan. Không những thế, truyền hình còn là công cụ đắc lực để nâng cao dân trí, phát triển kinh tế đặc biệt là đối với những người dân ở vùng sâu, vùng xa.
Nhằm phát triển ngành truyền hình Việt Nam trong 20 năm tới và sau đó đưa đài truyền hình Việt nam sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới, thời gian qua Đài truyền hình Việt nam không những quan tâm tới các dự án phát triển truyền hình trên phạm vi toàn ngành. Ban quản lý dự án trung tâm truyền hình Việt Nam là đơn vị chịu trách nhiệm với tất cả các hoạt động đầu tư của toàn ngành, nhằm đạt hiệu quả cao nhất, thời gian qua, đài truyền hình Việt Nam và ban quản lý dự án trung tâm truyền hình Việt Nam đã không ngừng củng cố kiện toàn bộ máy cũng như các hoạt động của mình nhằm đưa ngành truyền hình Việt Nam nói chung phát triển
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
Ngày 7 tháng 9 năm 1970 là ngày phát sóng đầu tiên của chương trình THVN. Thấm thoát đã hơn 30 năm. Từ đó đến nay truyền hình đã liên tục phát triển và trở thành một phương tiện thông tin đại chúng sắc bén và đại chúng nhất, là người bạn thân thiết của mỗi gia đình Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi: “Bao giờ dân ta được xem truyền hình?”. Đáp ứng lòng mong muốn của Bác Hồ cũng như nguyện vọng của nhân dân ta, Đảng và Chính phủ đã rất mực quan tâm, trong hoàn cảnh hết sức khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã tạo những điều kiện ưu tiên cho sù ra đời và phát triển ngành truyền hình.
Từ ngày Êy đến nay, Truyền hình Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng và có những tiến bộ vượt bậc. Từ ngày phát hình đen trắng chuyển sang phát hình màu, từ phát hành thử nghiệm chương trình 4 giờ/ngày, vào ban đêm, đến năm 1995 phát 10 giờ/ngày, đến nay, đài THVN phát sóng 45 giờ/ngày trên 4 kênh: VTV1, VTV2,VTV3, VTV4. Các chương trình thời sự, các chương trình thể thao và giải trí bổ Ých là những món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đồng bào và chiến sỹ trong cả nước, cũng như đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, giúp bạn bè quốc tế hiểu biết sâu sắc hơn về đất nước và con người Việt Nam.
Bắt đầu phủ sóng qua truyền hình vệ tinh từ năm 1991, thực hiện chương trình phủ sóng quốc gia và chương trình mục tiêu “Đưa truyền hình về vùng núi, vùng cao, biên giới, hải đảo” đến năm 2000, hơn 80% số hộ gia đình Việt Nam đã được xem các chương trình truyền hình.
Trên đà kết quả đã đạt được, Đài THVN đang không ngừng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm tiếp tục phát triển nhanh chóng và vững chăcs trong thời kỳ trước, sánh ngang với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
1. Đài THVN- Đài TH quốc gia:
Sau ngày đất nước được thống nhất, Đảng và nhà nước ta có điều kiện đầu tư nhiều hơn cho ngành truyền hình. Cán bộ, phóng viên, được bổ xung, một số được đào tạo ở trong nước và nước ngoài, phương tiện kỹ thuật bước đầu được trang bị. Giữa năm 1976, Ban biên tập vô tuyến TH được chuyển thành Đài TH Trung Ương có có cơ sở làm việc mới xây dựng là Trung tâm truyền hình Giảng Võ. Nghị định 72/ HĐBT ngày 30-4-1987 chuyển Đài Truyền hình Việt Nam trực thuộc Chính phủ và mang tên Đài Truyền hình Việt Nam.
Từ đây, Đài chính thức được nhà nước xác định là đài Truyền hình Quốc gia.
Nghị định 52 CP do Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ký ngày 16-8-1993 một lần nữa nêu rõ: “Đài THVN là Đài Quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, quản lý thống nhất kỹ thuật truyền hình trong cả nước”. Như vậy, từ một ban biên tập trực thuộc Đài tiếng nói Việt Nam, trở thành đài quốc gia, THVN đã từng bước trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước. THVN đã vượt qua rất nhiều khó khăn để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
Với ưu thế đặc biệt riêng có của Đài truyền hình mà không một loại báo chí nào có được bởi tính đặc thù rất lớn trong thông tin truyền tải. Vì vậy mà truyền hìn có sức thu hút đông đảo quần chúng quan tâm theo dõi.
Vì những lý do trên mà Đài THVN đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng tư tưởng chính trị, đường lối, chủ trương chính sách lãnh đạo của Đảng vf nhà nước đối với mọi người dân. Bên cạnh đó, ngành truyền hình còn đóng một vai trò khác không kém phần quan trọng, đó là thông tin nhanh chóng các vấn đề thời sự, kinh tế –xã hội, văn hoá thể thao đến người dân Việt Nam.
Không những thế, truyền hình còn là công cụ đắc lực để nâng cao dân trí, phát triển kinh tế đặc biệt là đối với những người dân ở vùng sâu vùng xa.
Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy nên từ khi ra đời đến nay đài THVN đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Cho đến nay, Đài THVN đã phủ sóng được hơn 70% diện tích cả nước, hơn 80% người dân được xem truyền hình quốc gia.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Đài THVN:
Nghị định 52 CP ngày 16-8-1993 đã quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Đài THVN như sau:
-Đài Truyền hình Việt Nam là Đài quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, quản lý thống nhất kỹ thuật truyền hình trong cả nước.
Đài THVN chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Văn hoá- thông tin về hoạt động báo chí.
-Ngòai nhiệm vụ và quyền hạn đã quy định chung cho các loại hình báo chí tại Điều 6, chương III luật báo chí, Đài Truyền hình Việt Nam có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
+Xây dùng quy hoạch, kế hoạch 5 năm phát triển hệ thống truyền hình trong cả nước gửi Uỷ ban kế hoạch nhà nước tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch ây.
+Xây dựng kế hoạch hàng năm của hệ thống truyền hình cả nước gửi Uỷ ban Kế hoạch nhà nước tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt, trực tiếp quản lý phần ngân sách dành cho hệ thống truyền hình cả nước theo kế hoạch được phê duyệt và hướng dẫn các Đài địa phương thực hiện phần ngân sách dành cho truyền hình do địa phương quản lý theo đúng mục tiêu , kế hoạch được duyệt.
+Hướng dẫn về nội dung và tổ chức phân công, phối hợp giữa các Đài truyền hình trong cả nước về kế hoạch sản xuất các chương trình truyền hình quốc gia và địa phương, chỉ đạo các Đài địa phương về nghiệp vụ và kỹ thuật truyền hình.
+Quản lý trực tiếp hệ thống kỹ thuật chuyên dùng đẻ truyền dẫn tín hiệu và phát sóng truyền hình trong cả nước.
+Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, phóng viên, biên tập viên, biên dịch viên, công nhân kỹ thuật chuyên ngành truyền hình.
+Tổ chức công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ hoa học và công nghệ về truyền hình.
+Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về truyền hình trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đó.
+Quản lý tổ chức và cán bộ, tài chính, tài sản của Đài Truyền hình Việt Nam theo chế độ hiện hành.
3.Cơ cấu tổ chức bộ máy của Đài Truyền hình Việt Nam :
Nghị định 52 CP ngày 16/8/1993 đã quy định về tổ chức bộ máy của Đài THVN như sau:
-Đài THVN do Tổng giám đốc phụ trách, phụ trách các Tổng giám đốc có các Phó Tổng giám đốc
Tổng giám đốc và các Phó tổng giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.
-Cơ cấu tổ chức của Đài THVN gồm có:
+Các ban chức năng nghiệp vụ truyền hình gồm:
*Ban thư ký biên tập
*Ban biên tập thời sự
*Ban biên tập Khoa giáo
*Ban biên tập văn nghệ
*Ban biên tập đối ngoại
*Ban truyền hình địa phương
+Các ban kỹ thuật truyền hình:
*Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình: là đơn vị đảm bảo toàn bộ khâu kỹ thuật, điện lạnh trong quá trình sản xuất ra sản phẩm truyền hình. Để đáp ứng nhiệm vụ sản xuất chương trình ngày một cao về số lượng và chất lượng, trung tâm cũng được củng cố và tăng trưởng không ngừng về tổ chức và cơ sở vật chất kỹ thuật.
Để đáp ứng các yêu cầu kịp thời của thông tin, trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình đã thực sự là một đơn vị chủ lực tổ chức các buổi TH trực tiếp được đông đảo nhân dân khen ngợi.
*Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng: là trung tâm có vai trò gắn liền với sự hình thành và phát triển của TH Việt Nam. Trong những năm đầu mò mẫm làm TH, các cán bộ kỹ thuật đã thực hiện thành công buổi phát sóng đầu tiên 7-9-1970 bằng máy phát sóng truyền hình tự tạo, cải tiến máy phát thanh FM của Hunggari. Thời gian sau đó trung tâm liên tục giúp các địa phương xây dựng và lắp đặt các Đài TH địa phương. Năm 1991, trung tâm đã chủ trì thử nghiệm phát sóng qua vệ tinh đồng thời lắp đặt một loại các trạm thu phát lại TH qua vệ tinh. Hiện nay, trung tâm đang quản lý khai thác, vận hành mạng lưới Đài phát sóng quốc gia và quản lý kỹ thuật chuyên ngành truyền dẫn, phát sóng trong cả nước.
+Ban tổ chức cán bộ và đào tạo
+Ban kế hoạch tài vụ
+Ban Quan hệ quốc tế
+Ban thanh tra
+Văn phòng
+Các cơ quan thường trú trong nước và nước ngoài
+Ban quản lý dự án Trung tâm truyền hình Việt Nam
Hiện nay ban đang tổ chức quản lý xây dựng dự án Trung tâm THVN với tổng vốn đầu tư là 385,85 triệu $ Mỹ, dự kiến đến năm 2010 sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng
Tổng giám đốc Đài THVN quy định cụ thể nhiệm vụ của các đơn vị nêu trên và trình Thủ tướng Chính phủ quy định việc lập cơ quan thường trú ở trong nước và nước ngoài
4. Đài truyền hình Việt Nam và quy hoạch tổng thể phát triển truyền hình Việt Nam
Quyết định số 484/TTg ngày 22/8/1995 đã phê duyệt phát triển ngành truyền hình Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010 và những năm sau. Quy hoạch đã xác định mục tiêu cho ngành truyền hình phải đạt được cho đến năm 2010 và những năm sau là :
- Nâng cao chÊt lượng chương trình truyền hình quốc gia về tính toàn quốc và toàn diện, về nội dung và kỹ thuật, về nghệ thuật và hình thức thể hiện...
- Hình thành mạng lưới phát sóng truyền hình toàn quốc từ trung ương đến địa phương.
- Đổi nới và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phủ hợp với xu thế phát triển của thế giới nhằm phục vụ 90% số hộ gia đình trong nước bao gồm cả vùng núi cao, biên giới, hải đảo đều được xem chương trình truyền hình quốc gia, mở rộng đối với một số địa bàn trên thế giới có cộng đồng người Việt đông đảo sinh sống.
Riêng về cơ sở vật chất kỹ thuật bản quy hoạch nêu rõL
+ Hoàn thiện và nâng cấp trung tâm sản xuất chương trình tại Giảng Võ. Tổ chức lại dây chuyềng công nghệ sản xuất chương trình treo mô hình mới.
+ Chuẩn bị điều kiện khởi công xây dựng trung tâm sản xuất chương trình mới tại Giảng Võ (nay là Nguyễn Chí Thanh).
+ Trong sản xuất chương trình, từng bước thống nhất thiết bị sản xuất chương trình trong toàn ngành, nâng cấp các Đài địa phương, trang bị thêm jcác phương tiện ghi hình, thiết bị trường quay, thiết bị làm hậu kỳ.
+ Về kỹ thuật: đưa công nghệ Component Digital vào dây chuyền sản xuất . Tăng cường đầu tư thiết bị gọn nhẹ, kỹ thuật số trong khâu xử lý gia công tín hiệu trong quá trình sản xuất chương trình, trong khâu hậu kỳ... (như Betacm số, thiết bị trộn kỹ xảo số...).
+ Xây dựng hệ thống phát sóng chương trình truyền hình quốc gia bao gồm hệ thống trạm phát lại có công suất lớn ở các thành phố và tình lỵ cùng với các trạm phát lại có công suất nhỏ ở những nơi hẻo lánh.
+ Trang bị các xe truyền hình lưu động cho các vùng trọng điểm.
+ Nâng cấp Đài phát sóng Giảng Võ và Tam Đảo. Triển khai chương trình ODA tại các điểm theo kế hoạch từng năm.
5. Một số hoạt động và kết quả thu được của Đài truyền hình Việt Nam thời gian qua.
Do tính chất đặc thù và vai trò đặc biệt quan trọng của Đài truyền hình Việt Nam nên đã từ lâu Đảng và Chính phủ luôn có sự quan tâm thiết thực đối với sự nghiệp truyền hình : “chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị, tư tưởng, văn hoá cũng như về kỹ thuật hiện đại đối với truyền hình là loại hình báo chí có ưu thế loán, có sức thu hút công chúng đông đảo” (trích Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ năm khoá VIII).
Đồng thời chỉ thị của thủ tướng Chính Phủ ngày 14/3/1994 về xây dựng và phát triển ngành phát thanh- truyền hình đã nêu: “Phải chú ý đến sự phát triển rất nhanh về khoa học và công nghệ phát thanh, truyền hình trên thế giới. Cải tiến nội dung, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình cho có sức hÊp dẫn hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng cuả người xem”.
Bởi vậy thời gian qua Đài truyền hình Việt Nam đã không ngừng nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như thời lượng và chất lượng các chương trình truyền hình. Điều đó được thể hiện qua mét số kết quả cụ thể sau:
-Từ ngày 5-7-1976 phát hành chính thức hàng ngày
-Hoàn thiện và đưa vào sử dụng Đài phát hình Tam Đảo, chuyển tiếp chương trình truyền hình Giảng Võ, phục vụ cho đồng bằng Bắc Bộ và một số tỉnh miền núi.
Đài phát thanh truyền hình Tam Đảo là đài phát sóng có công suất lớn, phục vụ việc chuyển tiếp chương trình của ĐTHVN tới vùng rộng lớn của đồng bằng Bắc Bộ và một số tỉnh miền núi.
Từ những năm 1973-1974, các cán bộ kỹ thuật truyền hình đã khảo sát, nghiên cứu phương án và tiến hành xây dựng Đài phát sóng Tam Đảo nằm trên độ cao 1250 m so với mặt biển bao gồm các cột ăngten, nhà đặt thiết bị và đường dây cáp điện chạy từ 900m lên tới đỉnh núi.
Thiết bị ban đầu của Đài phát sóng Tam Đảo gồm máy phát Ba Lan, công suất phát hình 20 Kw, phát tiếng 4 Kw, hệ thống ăng ten với 32 panô lưỡng cực hướng tròn, công suất bức xạ hữu hiệu khoảng 250 Kw.
Quá trình thi công và hoàn thiện Đài phát sóng truyền hình Tam Đảo là quá trình lao động dũng cảm, sáng tạo của những người mở đường cho ngành truyền hình.
-Từ 3-9-1978 bắt đầu phát thí nghiệm màu, đến 1-8-1986 chuyển sang hoàn toàn phát màu.
-Năm 1980, Liên Xô giúp ta xây dựng Đài vệ tinh mặt đất Hoa Sen, Đài Truyền hình TW cũng được trang bị phương tiện để thu các chương trình truyền hình của Đài truyền hình Matxcơva qua Đài Hoa Sen. Lần đầu tiên khán giả truyền hình Việt Nam được theo dõi Đại hội Olympic Matxcơva, sau đó là giải bóng đá ESPANA-82 và cầu truyền hình đầu tiên Hà Nội- Matxcơva.
Ngay từ khi Đài Hoa Sen do Liên Xô giúp đỡ đi vào hoạt động năm 1980, lãnh đạo Uỷ ban phát thanh- truyền hình Việt Nam và Đài truyền hình TW đã chủ trương tham gia vào việc trao đổi tin tức chương trình giữa các thành viên OIRT Châu á và Châu âu, trong khuôn khổ Intervision-D (IVN-D), mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư.
Lúc đầu, tín hiệu truyền đi của TH Việt Nam là đen trắng, sau là màu của các máy Low-band rồi High- band với TBC. Truyền hình Việt Nam nhận được tin tức của các nước thành viên tham gia IVN-D. Ngoài ra còn nhận toàn bộ chương trình của truyền hình Liên Xô để lựa chọn sử dụng.
Trong đó :
Hệ chương trình 1 (VTV1): là chương trình tổng hợp bao gồm các mặt chính trị – kinh tế- văn hoá- xã hội, nhằm phục vụ cho mọi đối tượng của toàn xã hội.
Hệ chương trình 2 (VTV2): là chương trình khoa học- giáo dục dành cho đối tượng học sinh, sinh viên và nâng cao dân trí cho cộng đồng. VTV2 truyền đạt kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. VTV2 sẽ tiến tới có những giáo trình dạy học từ xa và cấp đại học đối với một số ngành.
Hệ chương trình 3 (VTV3): là chương trình văn hoá- thể thao- thông tin- quảng cáo nhằm phục vụ khán giả truyền hình bằng những tiết mục văn hoá, thể thao, phim truyện vui tươi, lành mạnh, hấp dẫn, bổ Ých.
Hệ chương trình 4 (VTV4): là chương trình dành cho thông tinh đối ngoại và cộng đồng người Việt ở nước ngoài. VTV4 đã phủ sóng ở Châu á, Châu âu, Châu phi. Từ ngày 27-4-2000 phủ sóng Bắc Mỹ, Caribê, Ha oai.
Chương trình truyền hình địa phương là chương trình truyền hình do các Đài truyền hình địa phương sản xuất , có sự hỗ trợ của Đài truyền hình Việt Nam và phát sóng trên địa bàn địa phương.
Ngoài 4 hệ chương trình quốc gia và chương trình của các địa phương, Truyền hình Việt Nam cà quy hoạch từng bước phát triển hệ truyền hình đa chương trình bằng vi ba cáp. Ngày 3/4/2000 Hãng Truyền hình cáp Việt Nam đã được ra đời. Đây là hệ truyền phát cùng một lúc nhiều chương trình tới người xem, trong đó có thể bao gồm các chương trình quốc gia, chương trình địa phương, các chương trình quốc tế chọn lọ... Thời lượng có chương trình tới 24/24 giê trong ngày. Hệ truyền hình này trước mắt thực hiện ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác.
PHẦN 2:BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN TRUNG TÂM TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
Như đã phân tích, Đài Truyền hình Việt Nam là Đài truyền hình quốc gia với vai trò nhiệm vụ thông tin vô cùng quan trọng " là tiếng nói của Đảng, là người chuyển mọi thông tin về chính trị, văn hoá, tư tưởng, đường lối của Nhà nước tới người dân. Vì vậy đã từ lâu Đảng và Chính phủ rất quan tâm tới việc đầu tư và phát triển ngành truyền hình Việt nam nhằm đưa Đài Truyền hình Việt Nam có đủ mọi điều kiện về cơ vật chất cũng như các trang thiết bị chuyên ngành để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay đồng thời đưa Đài Truyền hình Việt Nam sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện nước ta còn rất nghèo, ngân sách Nhà nước lại eo hẹp nên để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này cần có một cơ quan chuyên trách cóđầy đủ chuyên môn và kinh nghiệm tổ chức, điều hành việc thực hiện toàn bộ các công cuộc đầu tư và xây dựng C ban cũng như việc mua sắm máy móc thiết bị. Do đó ngày 23/8/1995 Ban quản lý dự án Trung tâm truyền hình Việt nam đã ra đời nhằm thực hiện những nhiệm vụ trên.
1. Sự thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của ban quản lý trung tâm truyền hình Việt nam :
1.1. Sự thành lập
Dựa trên các căn cứ
- Căn cứ nghị định 52/CP ngày 16/8/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của đài truyền hình Việt Nam
- Căn cứ quyết định sè 484/TTg ngày 22/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "quy hoạch phát triển ngành truyền hìh Việt nam đến năm 2000 và những năm sau". Thông báo số 113/TB ngày 22/8/1995 của văn phòng Chính phủ "ý kiến kết luận của Thủ tướng Võ Văn Kiện quy hoạch phát triển ngành truyền hình Việt nam năm 2000 và những năm sau".
Dựa trên những căn cứ đó, ngày 23/8/1995 Tổng giám đốc đài truiyền hình Việt nam đã quyết định số 524 QĐ/TC - Truyền hình Việt Nam về việc thành lập Ban quản lý dự án truyền hình Việt Nam
Việc thành lập một ban Quản lý dự án chuyên trách như vậy hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của ngành truyền hình cũng như những đòi hỏi chung của công cuộc đầu tư phát triển và xây dựng cơ bản
1.2. Chức năng
Quyết định số 571QĐ/TC - THVN ngày 12/9/1995 của Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam đã quy định
Ban quản lý dự án trung tâm truyền hình Việt Nam là đơn vị sự nghiệp kinh tế trực thuộc Đài truyền hình Việt Nam có tư cách pháp nhân đầy đủ, có con dấu và tài khoản riêng. Ban quản lý dự án có các chức năng sau:
1- Quản lý về quy trình chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng
2- Quản lý các nguồn vốn bao gồm (vốn ngân sách và nguồn vốn huy dộng khác của Đài truyền Việt Nam) cấp cho dựa án để thanh toán cho các tổ chức tư vấn, xây dựng, cung ứng vật tư thiết bị…
3- thực hiện đầy đủ có liên quan về lập và trình duyệt dự án , thiết kế kỹ thuật và tổng hợp dự án theo điều quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 177/Chính phủ ngày20/11/1994 của Chính phủ
1.3. Nhiệm vụ:
Dựa trên các chức năng đã được quy định Ban quản lý dự án trung tâm Việt nam có các nhiệm vụ cụ thể sau
1- Thay mặt Đài Truyền hì