Kỹ thuật điện là ngành kỹ thuật ứng dụng các hiện tượng điện từ để biến đổi năng lượng, đo lường, điều khiển, xử lý tín hiệu bao gồm các việc tạo ra, biến đổi và sủ dụng điện năng, tín hiệu điện trong các sinh hoạt của con người.
So với các hiện tượng vất lý khác như cơ, nhiệt, quang hiện tượng điện từ được phát hiện chậm hơn vì các giác quan không cảm nhận trực tiếp được các hiện tượng này. Tuy nhiên, việc khám phá ra hiện tượng điện từ đã thúc đẩy mạnh mẽ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật chuyển sang lĩnh vực điện khí hoá và tự động hoá. Các phát minh, sáng chế liên tục ra đời thúc đẩy công nghiệp phát triển như vũ bão. Hàng loạt các máy móc, thiết bị điện được sản xuất, chế tạo giúp con người giải phóng lao động chân tay, thủ công, đưa nền sản xuất đi dần vào tự động hoá. Đồng thời, điện năng cũng phục vụ rất đắc lực cho con người trong mọi sinh hoạt.
Để thực hện việc biến đổi cơ năng thành điện năng và ngược lại, người ta sử dụng các loại máy điện. Máy điện là một hệ điện từ bao gồm mạch từ và mạch điện liên quan với nhau. Mạch điện bao gồm hai hay nhiều dây quấn có thể chuyển động tương đối với nhau cùng với các bộ phận mang chúng. Từ nhu cầu tiêu dùng điện năng ngày càng cao nên máy điện càng được sử dụng nhiều trong cộng sống. Máy điện được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và tong các dụng cụ sinh hoạt gia đình.
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2574 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quấn máy điện 3 pha, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Kỹ thuật điện là ngành kỹ thuật ứng dụng các hiện tượng điện từ để biến đổi năng lượng, đo lường, điều khiển, xử lý tín hiệu bao gồm các việc tạo ra, biến đổi và sủ dụng điện năng, tín hiệu điện trong các sinh hoạt của con người.
So với các hiện tượng vất lý khác như cơ, nhiệt, quang… hiện tượng điện từ được phát hiện chậm hơn vì các giác quan không cảm nhận trực tiếp được các hiện tượng này. Tuy nhiên, việc khám phá ra hiện tượng điện từ đã thúc đẩy mạnh mẽ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật chuyển sang lĩnh vực điện khí hoá và tự động hoá. Các phát minh, sáng chế liên tục ra đời thúc đẩy công nghiệp phát triển như vũ bão. Hàng loạt các máy móc, thiết bị điện được sản xuất, chế tạo giúp con người giải phóng lao động chân tay, thủ công, đưa nền sản xuất đi dần vào tự động hoá. Đồng thời, điện năng cũng phục vụ rất đắc lực cho con người trong mọi sinh hoạt.
Để thực hện việc biến đổi cơ năng thành điện năng và ngược lại, người ta sử dụng các loại máy điện. Máy điện là một hệ điện từ bao gồm mạch từ và mạch điện liên quan với nhau. Mạch điện bao gồm hai hay nhiều dây quấn có thể chuyển động tương đối với nhau cùng với các bộ phận mang chúng. Từ nhu cầu tiêu dùng điện năng ngày càng cao nên máy điện càng được sử dụng nhiều trong cộng sống. Máy điện được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải… và tong các dụng cụ sinh hoạt gia đình.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
A - CƠ SỞ LÝ THUYẾT MÁY ĐIỆN
I. Giới thiệu chung về máy điện.
Máy điện là thiết bi điện hoạt động dựa trên nguyên lý cảm ứng điện từ. Về cấu tạo, máy điện gồm mạch từ ( lõi thép) và mạch điện ( dây cuốn) dùng để biến đổi các dạng năng lượng khác như cơ năng thành điện năng
( máy phát điện ) hoặc điện năng thành cơ năng ( đông cơ điện) hoặc dùng để biến đổi các thông số điện như điện áp, dòng điện, tần số pha…
Sự biến đổi cơ điện trong máy điện dựa trên nguyên lý về điện từ. Nguyên lý này cũng đặt cơ sở cho sự làm việc của các bộ biến đổi cảm ứng dùng để biến đổi các thông số điện. Máy điện dùng làm máy biến đổi năng lượng là phần tử quan trong nhất của bất cứ thiết bị điện năng nào. Nó được sủ dụng rộng rãi trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, các hệ điều khiển và tự động điều chỉnh.
Máy điện có nhiều loại, được phân loại theo nhiều cách khác nhau phân loại theo công suất, theo cấu tạo, theo chức năng, theo dòng điện, theo nguyên lý làm việc… ở đây ta phân loại theo nguyên lý biến đổi năng lượng.
+ Máy điện tĩnh:
Máy điện tĩnh thường gặp là các loại máy biến áp. Máy điện tĩnh làm việc dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ do sự biến thiên từ thông giữa các cuộn dây không có sự chuyển động tương đối với nhau.
Máy điện tĩnh thường dùng để biến đổi thông số điện năng. Do tính chất thuận nghịch của các quy luật cảm ứng điện từ, quá trình biến đổi có tính thuận nghịch.
Ví dụ: Máy biến áp có thể biến đổi điện năng có các thông số U1, I1,F1 thành điện năng có các thông số U2, I2, F2 và ngược lại.
MBA
U1, I1, (1 U2, I2, (2
+ Máy điện có phần động( quay hoặc chuyển động thẳng).
Nguyên lý làm việc dựa vào hiện tượng cảm ứng điện từ, lực điện từ, do từ thông và dòng điện của các cuộn dây có chuyển động tương đối với nhau gây ra. Loại máy điện nay thường dùng để biến đổi năng lượng.
Ví dụ: Biến điện năng thành cơ năng ( động cơ điện) hoặc biến cơ năng thành điện năng( máy phát điện ). Trong qúa trình biến đổi có tính thuận nghịch nghĩa là máy điện có thể làm việc ở chế độ máy phát hoặc động cơ điện.
Sơ đồ phân loại máy điện thông dụng thường dùng
II. Nguyên lý máy phát điện và động cơ điện.
Máy điện có tính thuận nghịch nghĩa là có thể làm việc ở chế độ máy phát điện hoặc động cơ điện.
1. Chế độ máy phát điện.
Cho cơ năng của động cơ sơ cấp tác dụng vào thanh dẫn 1 lực cơ học FC, thanh dẫn sẽ chuyển động với tốc độ v trong từ trường của nam châm NS trong thanh dán sẽ cảm ứng một sức điện động e. Nừu nối 2 cực của thanh dẫn điện trở R của tải thì dòng điện i chạy trong thanh dẫn sẽ cung cấp điện cho tải. Nừu bỏ qua điện trở thanh dẫn thì điện áp đặt vào tải U=2. Công suất điện máy phát cung cấp cho tải là p = ui = ei. Dòng điện i nằm trong từ trường sẽ chịu tác dụng của lục điện từ Fđt = Bil có chiều như hình vẽ.
Khi máy quay với tốc độ không đổi, lực điện từ sẽ cân bằng với lực cơ của động cơ sơ cấp.
Fc = Fđt ( Fc.v = Fđt.v ( Bil.v = ei
Như vậy công suất cơ của động cơ sơ cấp đã được biến đổi thành công suất điện nghĩa là cơ năng đã được biến đổi thành điện năng.
N
B i
Fđt Fc R
2. Chế độ động cơ điện.
Cung cấp điện cho máy điện, điện áp của nguồn U của nguồn điện gây ra dòng i trong thanh dẫn. Dưới tác dụng của từ trường sẽ có lực điện từ Fđt = Bi.l tác dụng lên thanh dẫn làm thanh dẫn chuyển động với tốc độ v. Công suất điện dưa vào động cơ.
P = ui = ei = Bilv = Fđt.v
Như vậy, công suất điện đưa vào động cơ đã biến thành công suất cơ trên trục Pc = Fđt.v. Điện năng đã biến thành cơ năng.
Ta thấy, cùng một thiết bị điện từ, tuỳ theo dạng năng lượng dựa vào mà máy điện có thể làm việc ở chế độ máy phát điện hoặc động cơ điện. Đây chính là tính chất thuận nghịch của mọi loại máy điện.
N
B
Fđt
III. Sơ lược về các vật liệu để tạo máy điện.
Các vật liệu dùng để chế tạo có thể chia làm 3 loại:
- Vật liệu tác dụng.
- Vật liệu kết cấu.
- Vật liệu cách điện.
1. Vật liệu tác dụng.
Đây là vật liệu dẫn từ và dẫn điện. Các vật liệu này được dùng để tạo điều kiện cần thiết sinh ra các biến đổi điện từ.
a. Vật liệu dẫn từ:
Để chế tạo mạch từ của máy điện, người ta thường dùng các loại thép khác nhau như thép lá kỹ thuật điện, thép lá thường, thép đúc, thép rèn. Giang ít được dùng vì dẫn từ không tốt lắm.
Người ta hay sử dụng các lá thép kỹ thuật điện có hàm lượng silic khác nhau nhưng không được vượt quá 4,5%. Hàm lượng silic này dùng để hạn chế tổn hao do từ trễ, tăng điện trở của thép để giảm tổn hao do dòng điện xoáy.
Người ta hay sử dụng các lá thép dày 0,50 mm dùng trong máy điện quay, ghép lại làm lõi thép để giảm tổn hao do dòng điện xoáy gây nên. Tuỳ theo cách chế tạo người ta phân lá thép kỹ thuật điện làm 2 loại: Cán nóng và các nguội. Loại cán nguội có đặc tính từ tốt hơn như độ từ thẩm cao hơn, tổn hao thép ít hơn loại cán nóng. Thép lá cán nguội lại chia làm 2 loại: đẳng hướng và vô hướng. Loại đẳng hướng có đặc điểm là dọc theo chiều cán thì tính năng từ tính tốt hơn hẳn so với ngang chiều cán, do đó thường được sử dụng trong máy biến áp còn loại vô hướng thì đặc tính từ đều theo mọi hướng nên thường được dùng trong máy điện quay.
Ví dụ: Thép cán nóng w21, w31A; thép cán nguội: w410, w310
Chữ w chỉ thép kỹ thuật điện
Chữ A chỉ tổn hao thấp
Chữ O chỉ thép cán nguội
Chỉ số thứ hai chỉ tổn hao rieng của các loại thép.
Ở đoạn mạch từ có từ thông biến đổi với tần số 50hf thường dùng lá thép kỹ thuật điện dày 0,35 ữ 0.5 mm trong thành phần thép có từ 2 ữ 5% silic. ở tần số cao hơn, dùng thép lá kỹ thuật điện dày 0,1ữ 0,2 mm. ở đoạn mạch từ có từ trường không đổi thường dùng thép đúc, thép rèn hoặc thép lá.
b. Vật liệu dẫn điện:
Vật liệu dẫn điện dùng để chế tạo các bộ phận dẫn điện. Vật liệu dẫn điện dùng trong máy tốt nhất là đồng vì giá thành không đắt lắm và có điện trở suất nhỏ. Ngoài ra còn dùng nhôm và các hợp kim khác như đồng thau… Để chế tạo dây quấn ta thường dùng đồng đôi khi dùng nhôm. Dây đồng và dây nhôm được chế tạo theo tiết diện tròn hoạc chữ nhật, có bọc cách điện khác nhau như vải, sợi thuỷ tinh, giấy, nhựa hoá học, sơn emay. Với các loại máy có công suất nhỏ và trung bình, điện áp dưới 700V thường dùng sơn emay vì lớp cách điện của dây mỏng, đặt độ bền yêu cầu. Đối với các bộ phận khác nhau như vành đổi chiều, lồng sóc hoặc vành trượt, ngoài đồng nhôm người ta còn dùng cả các hợp kim của đồng hoặc nhôm hoặc có chỗ dùng cả thép để tăng độ bền cơ học và giảm kim loại màu.
2. Vật liệu kết cấu.
Vật liệu kết cấu là vật liệu dùng để chế tạo các chi tiết chịu tác động cơ học như trục, ổ trục, vỏ máy, nắp máy, các bộ phận và chi tiết truyền động hoặc kết cấu của máy theo các dạng cần thiết, đẩm bảo cho máy điện làm việc bình thường. Người ta dùng gang, thép, các kim loại màu, hợp kim, các vật liệu bằng chất dẻo.
3. Vật liệu cách điện.
Để cách điện các bộ phận mang điện trong máy người ta sử dụng vật liệu cách điện. Trong máy điẹn, vật liệu cách điện phải có cường độ cách điện cao, chịu nhiệt tốt, tản nhiệt tốt, chống ẩm và bền về cơ học. Độ bên vững về nhiệt của chất cách điện bọc dây dẫn quyết định nhiệt độ cho phép của dây và do đó quyết định tải của nó. Nếu tính năng chất cách điện càng cao thì lớp cách điện có thể mỏng và kích thước của máy giảm.
Chất cách điện của máy điện chủ yếu ở thể rắn gồm 4 nhóm:
- Chất hữu cơ thiên nhiên như giấy, vải, lụa…
- Chất vô cơ như amiăng, mica, sợi thuỷ tinh…
- Các chất tổng hợp
- Các loại men, sơn cách điện.
Chất cách điện tốt nhất là mica song tương đối đắt nên chỉ dùng trong các máy có điện áp cao, do đó thường dùng các vật liệu có sợi như giấy, vãi… Chúng có độ bền cơ học tốt, rẻ tiền nhưng hút ẩm kém, dẫn nhiệt kém, cách điện kém. Vì vậy, dây dẫn cách điện sợi phải được sấy, tẩm để cải thiện tính năng của vật liệu cách điện. Ngoài ra còn có chất cách điện ở thể khí( không khí, hyđrô, khí trơ) hoặc thể lỏng(dầu máy biến áp).
Vật liệu khí: Không khí là một chất cách điện tốt, tuy nhiên để cách điện tốt hơn người ta thường dùng khí trơ. Hyđrô được sử dụng trong trường hựp cần cách điện và làm mát bên trong vật liệu.
Vật liệu lỏng: Đây là loại vật liệu cách điện rất quan trọng trong máy điện vì nó có thể len lỏi vào các khe hở rất nhỏ và còn có thể sủ dụng để dập hồ quang. Căn cứ vào độ bền nhiệt, vật liệu cách điện được dựa ra nhiều loại, cấp cách điện như sau:
Cấp cách
điện
Vật liệu
Nhiệt độ vật liệu
giới hạn cho phép
Nhiệt độ TB dây quấn cho phép.
A
Sợi xenlulo, bông
Hoặc tơ tẩm trong vật liệu hữu cơ lỏng.
1050
1000
E
Vài loại màng tổng hợp
1200
1150
B
Amiăng, sợi thuỷ tinh có chất kết dính vật liệu gốc mica
1300
1200
F
Amiăng, vật liệu gốc mica,sợi thuỷ tinh có chất kết dính và tẩm tổng hợp.
1550
1400
H
Vật liệu mica, amiăng, sợi thuỷ tinh phối hợp chất kết dính và tẩm silic hưu cơ.
1800
1650
IV. Phát nóng và làm mát máy điện.
Trong quá trình làm việc có tổn hao công suất. Tổn hao năng lượng trong máy điện gồm tổn hao sắt từ ( do hiện tượng từ trễ và dòng xoáy) trong thép, tổn hao đồng trong điện trở dây quấn và tổn hao do ma sát ( ở máy điện quay). Tất cả tổn hao năng lương đều biến thành nhiệt năng làm nóng máy điện.
Khi đó do tác động của nhiệt độ, chấn động và các tác động lý hoá khác, lớp cáh điện sẽ bị bão hoà nghĩa là mất dần các tính bền về điện và cơ. Thực nghiệm cho thấy khi nhiệt độ tăng quá nhiệt độ cho phép
8 ữ 100 thì tuổi thọ của vật liệu cách điện giảm đi một nửa. ở nhiệt độ làm việc cho phép, độ tăng quá nhiệt của các phần tử không vượt quá độ tăng nhiệt cho phép, độ tăng nhiệt độ của các phần tử không vượt quá độ tăng nhiệt cho phép, tuổi thọ trung bình của vật liệu cách điện vào khoảng 10 ữ15 năm. Khi máy làm việc quá tải, độ tăng nhiệt độ sẽ vượt quá nhiệt đô cho phép. Vì vậy khi sử dụng máy điện cần tránh để máy quá tải làm nhiệt độ tăng cao trong một thời gian dài.
Để làm mát máy điện phải có biện pháp tan nhiệt ra ngoài môi trường xung quanh. Sự tản nhiệt không những phụ thuộc vào bề mặt làm mát của mặt máy ma còn phụ thuộc vào môi trường làm mát khác như dầu máy biến áp… Thông thường, vỏ máy điện được chế tạo có các cách tản nhiệt và máy điện có hệ thống có hệ thống quạt gió để làm mát.
B - MÁY ĐIỆN KHÔNG ĐỒNG BỘ
I. Khái niệm chung.
Máy điện không đồng bộ là loại máy điện xoay chiều, làm việc theo nguyên lý cảm ứng điện từcó tốc đô quay của roto n khác với tốc độ quay của từ trường n1.
Máy điện không đồng bộ có 2 dây quấn: dây quấn stato (sơ cấp) nối với lưới điện tần số không đổi f1, dây quấn roto (thứ cấp) được nối tắt lại hoặc khép kín trên điện trở. Dòng điện trong dây quấn roto được sinh ra nhờ sức điện động cảm ứng có tần số phụ f2 phụ thuộc vào roto nghĩa là phụ thuộc vào tải ở chế độ động cơ điện cũng như chế độ máy phát điện.
II. Phân loại và kết cấu.
1. Phân loại.
Máy điện không đồng bộ có nhiều loại, được phân loại theo nhiều cách khác nhau: theo kết cấu của nó, theo kết cấu của roto, the số pha trên dây quấn stato…
+ Theo kết cấu của vỏ: máy điện không đồng bộ có thể chia thành các kiểu chính sau: kiểu hở, kiểu bảo vệ, kiểu kín, kiểu phòng nổ…
+ Theo kết cấu của roto: máy điện không đồng bộ chia lam 2 loại: loại loại roto kiểu dây quấn và roto kiểu lồng sóc.
+ Theo số pha trên dây quấn stato có thể chia làm 3 loại: 1 pha, 2 pha, 3 pha.
2. Kết cấu.
Giống như những máy quay khác, máy điện không đồng bộ gồm các bộ phận chinh sau:
a. Stato:
Stato là thành phần tĩnh gồm 2 bộ phận chính là lõi thép và dây quấn. Ngoài ra còn có vỏ máy, nắp máy.
- Lõi thép:
Lõi thép được ép trong vỏ máy làm nhiệm vụ dẫn từ. Lõi thép stato hình trụ do các lá thép kỹ thuật điên được dập rãnh bên trong ghép lại với nhau tạo thành các rãnh theo hướng trục vì từ trường đi qua lõi thép lá, từ trường quay lên để giảm tổn hao lõi thép được làm bằng những lá thép kỹ thuật điện dày 0,5 mm ép lại. Mỗi lá thép kỹ thuật điện đều có phủ sơn cách điện trên bề mặt để giảm hao tổndo dòng xoáy gay nên.
- Dây quấn.
Dây quấn stato làm bằng dây dẫn bọc cách điện (dây điện từ) và được đặt trong các rãnh của lõi thép. Kiểu dây quấn, hình dạng và cách bố trí dây quấn sẽ được trình bầy chi tiết trong bài sau.
- Vỏ máy.
Vỏ máy làm bằng nhôm hoặc gang dùng để cố định lõi thép và dây quấn cũng như cố định máy trên bệ, không dùng để làm mạch dẫn từ. Đối với máy có công suất tương đối lớn (1000kw) thường dùng thép tấm hàn lại thành vỏ. Tuỳ theo cách làm nguội máy mà dạng vỏ cũng khác nhau. Kiểu vỏ hở, vỏ bảo vệ, vỏ kín hay vỏ phòng nổ… Hai đầu vỏ có nắp máy và ở đỡ trục. Vỏ máy và nắp máy còn dùng để bảo vệ máy.
b. Roto:
Roto là phần quay gồm lõi thép, dây quấn và trục máy.
- Lõi thép:
Nói chung người ta sử dụng lá thép kỹ thuật điện như ở stato. Lõi thép được ép trục tiếp lên một giá roto của máy, phía ngoài của lá thép có xẻ rãnh để đặt dây quấn.
- Dây quân stato: có 2 loại chính. roto lòng sóc và roto dây quấn
+ Loại roto kiểu dây quấn: roto có dây quấn giống như dây quấn stato. Trong máy điện cỡ trung bình trở lên thường dùng dây quấn kiểu sóng 2 lớp vì bớt được những đầu dây nối, kết cấu dây quấn trên roto chặt chẽ. Trong máy điện cỡ nhở thường dùng dây quấn đồng tâm 1 lớp. Dây quấn ba pha của roto thường nối hình sao còn ba đầu kia được nối vào ba vành trượt thường làm bằng đồng đặt cố định ở 1 đầu trục và thông qua chổi than có thể đấu với mạch điện bên ngoài.
Đặc điểm của loại động cơ điện roto kiểu dây quấn là có thể thông qua chổi than đưa điện trở phụ hay suất điện động phụ vào mạch điện roto để cải thiện tính năng mở máy, điều chỉnh tốc độ hoặc cải thiện hệ số công suất của máy. Khi máy làm việc bình thường dây quấn roto dược nối ngắn mạch.
+ Loại roto kiểu lồng sóc : Kết cấu của loại dây quấn này rất khác so với dây quấn stato. Trong mỗi rãnh của lõi thép roto dặt vào thanh dẫn bàng đồng hay nhôm dài ra khỏi lõi thép và được nối tắt lại 2 đầu bằng 2 vành ngắn mạch bằng đồng hay nhôm làm thành 1 cái lồng, mà người ta hay gọi là lồng sóc.
Ở các máy công suất nhỏ, lồng sóc được chế tạo bằng cắch đúc nhôm vào các rãnh lõi thép roto, tạo thành thanh nhôm 2 đầu đúc vòng ngắn mạch và cánh quạt làm mát. Dây quấn roto lồng sóc không cần cách điện với lá thép. Để cải thiện tính năng mở may, trong máy công suất tương đối lớn, rãnh roto có thể làm thành rãnh sâu hoạc làm thành 2 rãnh lồng sóc (rãnh lồng sóc kép). Trong máy điện cỡ nhỏ, rãnh roto thường dược làm chéo đi một góc so với tâm trục.
Động cơ lồng sóc là loại rất phổ biến do giá thành rẻ và làm viêc đảm bảo. Động cơ roto dây quấn có ưu điểm về mở máy và diều chinh tốc độ song giá thành cao và vận hành kém tin cậy hơn roto lồng sóc nên chi dược dùng khi động cơ roto lồng sóc không đáp ứng các yêu cầu về truyền động.
c. Khe hở :
Vì roto là một khối tròn nên khe hở đều. Khe hở trong máy phát điện không đồng bộ rất nhỏ (0,2 ( 1mm trong máy phát điện vừa và nhỏ), để hạn chế dòng điện từ hóa và như vậy mới có thê làm cho hệ số công suất của máy cao hơn
III. Công dụng của máy phát điện không đồng bộ :
Máy điện không đồng bộ là loại máy điện xoay chiều chủ yếu làm động cơ điện. Do kết cấu đơn giản, làm việc chắc chắn, hiệu suất cao, giá thành hạ nên động cơ không đồng bộ là một loại máy được dùng dùng rộng rãi nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với công suất từ vài chục đến vài nghìn kw. Trong công nghiệp thường dùng máy điện không đồng bộ làm nguồn động lực cho các máy cán thép vừa và nhỏ, cho các máy công cụ ở các nhà máy công nghiệp nhẹ... trong các hầm mỏ dùng làm máy tời hay quạt gió. Trong nông nghiệp dùng làm máy bơm hay gia công nông sản công nông sản. Trong đời sống hàng ngày, máy điện không đồng bộ cũng dần dần chiếm một vị trí quan trọng: quạt gió, động cơ trong tủ lạnh … tóm lại, theo sự phát triển của nền sản xuất, điện khí hoá và tự động hoá, phạm vi ứng dụng của máy điện không đồng bộ ngày càng rộng rãi.
Tuy vậy, máy điện không đồng bộ cũng có những nhược điểm như hệ số cos( của máy thường không cao, đặc tính điều chỉnh tốc độ không tốt nên ứng dụng của máy điện không đồng bộ có phần bị hạn chế.
Máy điện không đồng bộ có thể dùng làm máy phát điện đồng bộ nên chỉ trong một vài trường hợp đặc biệt nào đó (như trong quá trình điện khí hoá nông thôn) cần nguồn điện phụ hay tạm thời thì nó cũng có ý nghĩa quan trọng.
IV. Nguyên lý làm việc của máy điện không đồng bộ.
Khi trong lõi thép stato của máy điện không đồng bộ, ta tạo một từ trường với tốc độ n1 = f: tần số dòng điện lưới đưa vào.
P: số cặp cực.
thì từ trường này quét qua dây quấn nhiều pha tự ngắn mạch đặt trên lõi thép roto và cảm ứng trong dây quấn đó suất điện động và dòng điện. Từ thông do dòng điện này sinh ra hợp với từ thông của stato tạo thành từ thông tổng ở khe hở. Dòng điện trong dây quấn tác dụng với từ thông khe hở sinh ra mome, tác dụng đó có quan hệ mật thiết với tốc độ quay của roto. Trong những phạm vi tốc độ khác nhau thì chế độ làm việc của máy cũng khác nhau.
Khi roto quay thuận với từ thông quay nhưng tốc độ nhỏ hơn tốc độ đồng bộ thì dòng điện sinh ra trong dây quấn roto cùng chiều với sức điện động và tác dụng từ trường tổng trong khe hở sinh ra lực F và mome M kéo roto đã biến thành cơ năng trên trục, nghĩa là máy điện làm vệc trong chế độ động cơ. Những máy chi làm việc ở chế độ này khi n < n1 vì khi đó mới có sự chuyển động tương đối giữa từ trường và dây quấn roto và như vậy trong dây quấn roto mới có dòng điện và mome kéo theo roto quay. Trong những phạm vi tốc độ khác nhau thì chế độ làm việc của máy cũng khác nhau.
Khi roto quay thuận và nhanh lên tốc độ đồng bộ dùng một động cơ sỏ cấp nào đó quay roto của máy điện không đồng bộ vượt tốc độ đồng bộ
n > n1, khi đó chiều của từ trường quay quét qua dây dẫn sẽ có chiều ngược lại, sức điện động và dòng điện trong dây dẫn roto cũng đổi chiều nên chiều của mome cũng ngược chiều quay của n1 nghĩa là ngược lại với chiều của roto nên đó là mome hãm. Máy điện đã biến cơ năng tác dụng lên trục dòng điện nghĩa lad máy điện làm việc ở chế độ máy phát điện.
Khi roto quay ngược với chiều từ trường quay thì chiều của sức điện động, dòng điện và cả mome vẫn giống như lúc ở chế độ động cơ điện. Vì mome sinh ra ngược với chiều quay của roto nên có tac dụng hãm roto đứng lại.Trong trường hợp này máy điện vừa lấy điện năng ở lưới diện vào vừa lấy cơ năng ở động cơ sơ cấp. Chế độ làm viêc nay gọi là chế độ làm hãm điện từ.
C – CƠ SỞ THIẾT KẾ BỘ DÂY QUẤN STATO
ĐỘNG CƠ KHÔNG ĐỒNG BỘ
I. Khái niệm và các thông số cơ bản.
1. Số cặp cực p.