Quản trị hàng hoá hiện vật

Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh trên thị trường diễn ra bình thường đòi hỏi quá trình vật chất phải thông suốt. Những vấn đề quan trọng trong quá trình phân phối vật chất là: - Nền kinh tế càng ở trình độ phát triển cao, có hệ thống phân phối ngày càng hoàn thiện thì chi phí phân phối càng được quan tâm quản lý. - Tổng chi phí phân phối vật chất lớn hơn nhiều so với những chi phí trong vận chuyển. - Những gánh nặng và rủi ro đi cùng với việc quản lý phân phối vật chất có ảnh hưởng tới tất cả các thành viên không phụ thuộc vào vị trí hoạt động của họ trong kênh phân phối

doc13 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị hàng hoá hiện vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 8 QUẢN TRỊ HÀNG HOÁ HIỆN VẬT Tầm quan trọng của quá trình phân phối hiện vật: Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh trên thị trường diễn ra bình thường đòi hỏi quá trình vật chất phải thông suốt. Những vấn đề quan trọng trong quá trình phân phối vật chất là: Nền kinh tế càng ở trình độ phát triển cao, có hệ thống phân phối ngày càng hoàn thiện thì chi phí phân phối càng được quan tâm quản lý. Tổng chi phí phân phối vật chất lớn hơn nhiều so với những chi phí trong vận chuyển. Những gánh nặng và rủi ro đi cùng với việc quản lý phân phối vật chất có ảnh hưởng tới tất cả các thành viên không phụ thuộc vào vị trí hoạt động của họ trong kênh phân phối Quá trình phân phối hàng hóa của công ty bánh kẹo Kinh Đô Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng nhất của mỗi doanh nghiệp. Đối với mọi doanh nghiệp, sản phẩm dịch vụ hàng hóa của doanh nghiệp nhằm mục đích cuối cùng là tiêu thụ càng nhiều càng đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để tiêu thụ được hàng hóa của mình, mỗi doanh nghiệp đều sử dụng những phương thức phân phối hàng hóa sản phẩm cho phù hợp với đặc thù ngành nghề kinh doanh cũng như các đặc tính của sản phẩm mà doanh nghiệp muốn tiêu thụ. Công ty cổ phần Kinh Đô sử dụng kênh phân phối theo sơ đồ như sau: 1 2 3 Kênh 1: Theo dòng kênh này sản phẩm của công ty đến tay người tiêu dùng một cách trực tiếp từ các cửa hàng Bakery của Kinh Đô. Kênh tiêu thụ này không những giúp công ty tiết kiệm được chi phí trung gian mà còn giúp công ty có điều kiện để tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Trong kênh này công ty có thể nhận được các phản hồi trực tiếp từ khách hàng. Được xây dựng từ năm 1999, hiện nay hệ thống này đã có 36 Bakery trên cả nước, trong những năm tới hệ thống Bakery có triển vọng phát triển mạnh nhờ việc công ty triển khai mô hình kinh doanh nhượng quyền Kênh 2: là kênh phân phối qua hệ thống siêu thị, công ty ký kết hợp đồng với các siêu thị để họ bày bán sản phẩm của công ty, hệ thống siêu thị có chức năng như người bán lẻ trong kênh phân phối.Kênh phân phối này tiêu thụ khoảng 10% doanh số của công ty. Kênh 3: đây là kênh có chiều dài lớn nhất trong hệ thống kênh phân phối của công ty. Đây là kênh tiêu thụ chính của công ty, khối lượng sản phẩm lưu chuyển qua kênh này chiếm khoảng 85% tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty. Từ các đại lý này, sản phẩm của công ty tiếp tục thông qua các nhà bán lẻ để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Cho đến nay, hệ thống phân phối của Kinh Đô được coi là hoàn hảo nhất trong số các công ty sản xuất bánh kẹo tại thị trường Việt Nam. Đối với kênh phân phối truyền thống, Kinh Đô có 82 nhà phân phối và 65000 cửa hàng bán lẻ ở khu vực phía nam, công ty còn có lợi thế từ 26 hệ thống Bakery , ở khu vực phía bắc, công ty có 51 nhà phân phối, 15000 cửa hàng bán lẻ và 10 Bakery. Tổng cộng, Kinh Đô có 133 nhà phân phối, 80000 cửa hàng bán lẻ và 36 Bakery. Đối với kênh phân phối hiện đại, Kinh Đô cung cấp sản phẩm trực tiếp cho 132 siêu thị. Ngoài các hình thức phân phối trên, Kinh Đô còn tổ chức hơn 13000 điểm bán bánh trung thu Kinh Đô trên cả nước vào mùa trung thu hàng năm Kinh Đô còn triển khai kế hoạch liên kết tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp tiêu dùng lớn, đối tác đầu tiên là Pepsi theo đó sản phẩm của Kinh Đô sẽ được bán độc quyền tại trên 200.000 điểm bán lẻ của Pepsi và ngược lại. Với việc hợp tác với một trong những công ty nước giải khát hàng đầu thế giới, không những giúp cho Kinh Đô gia tăng sản lượng tiêu thụ mà còn làm gia tăng giá trị thương hiệu khi thương hiệu của Kinh Đô sánh vai cùng với thương hiệu của Pepsi. Với mạng lưới phân phối trải khắp, các sản phẩm của Kinh Đô được bán rộng rãi hầu như ở mọi khu vực từ thành phố đến nông thôn, đưa Kinh Đô trở thành nhà sản xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam với thị phần gần 30%, đối với bánh trung thu, thị phần của công ty lên tới 70%. Phân phối vật chất là quá trình làm tăng thêm giá trị hàng hóa Kênh phân phối vật chất đảm bảo khả năng của công ty có thể sản xuất ra sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng của mình một cách đáng tin cậy.trong khi có rất nhiều hoạt động trao đổi diển ra trong kênh phân phối vật chất giữa các công ty có liên quan thì hoạt động quan trọng cốt lõi là hành động mua tiêu dùng của khách hàng công nghiệp hoặc tiêu dung Nếu một loạt các hoạt động trao đổi diển ra trong kênh cuối cùng không đáp ứng nhu cầu của khách ,không làm cho khách hàng chấp nhận và được thỏa mản thì không một giá trị nào được gia tăng trong quá trình phân phối vật chất đòi hỏi chi phí rất lớn này Khái niệm về quá trình làm tăng thêm giá trị cho hàng hóa là tư tưởng chủ đạo để xem xét các hoạt động cần thiết cho phân pối vật chất như một chuỗi các sự việc hoặc các hoạt động có tác động qua lại lẫn nhau. Quá trình làm tăng thêm giá trị trong phân phối vật chất cũng đồng thời tạo nên sự kết dính giữa công ty với cơ sở cung cấp và khách hàng của mình . Phân phối vật chất trước hết là nội bộ công ty giúp cho hàng hóa lưu chuyển từ ngoài vào ,lưu chuyển trong nội bộ và ra ngoài công ty Cấu trúc kênh phân phối vật chất và khuôn khổ hành động được thỏa thuận giữa các công ty trong kênh sẽ là điểm cốt lõi của các hoạt động liên tục. Để làm cho kênh phân phối vật chất làm đúng chức năng của nó như kế hoạch đã đặt ra thì mỗi thành viên trong kênh cần phải thường xuyên trao đổi những thông tin cần thiết có lien quan đến công việc chi tiết cụ thể trong khi hoạt động 8.3. Thiết lập các mục tiêu về dịch vụ Nhiệm vụ cơ bản của phân phối vật chất là phục vụ khách hang. Theo quan điểm phân phối vật chất, một công ty cần phải phục vụ cả khách hang bên ngoài và khách hang bên trong công ty mình. Các khách hang bên ngoài đặc biệt dễ nhận ra trong khi lập kế hoạch kênh bởi học đem lại nguồn thu nhập quan trọng tạo nên lợi nhuận cho daonh nghiệp. Khía cạnh thứ hai của dịch vụ phân phối vật chất trong một công ty cụ thể có liên quan đến các hoạt động bên trong doanh nghiệp. Đối tượng của quá trình phân phối bên trong là các phương tiện và quá trình sản xuất qua đó người ta tạo ra hang hóa và thực hiện các dịch vụ làm tăng thêm giá trị. 8.3.1. Các cách thức cơ bản dùng để đánh giá dịch vụ khách hang trong phân phối vật chất. Dịch vụ cung ứng cho khách hang trong phân phối vật chất: Sự sẵn có của hàng hóa Khả năng cung ứng dịch vụ Chất lượng của dịch vụ Hoạt động phân phối vật chất thường được đánh giá và so sánh với các tiêu chuẩn và các mục tiêu trong quá trình hoạt động. Sự sẵn có của hàng hóa Sự sẵn có của hàng hóa ttại các điểm bán là một cách thức để đánh giá khả năng đáp ứng những mong đợi của khách hàng trong suốt thời gian hoạt động của kênh. Sự sẵn có có thể được đánh giá theo 3 cách sau: Dựa vào tỷ lệ phần trăm hàng nhập kho tỷ lệ phần trăm hàng xuất kho, thường được đánh giá tại một thời điểm. Ví dụ: Một công ty đặt kế hoạch dự trữ 100 sản phẩm trong kho và báo cáo tổng kết tại thời điểm bắt đầu ngày hoạt động kinh doanh cho biết có 93 sản phẩm sẵn sang để giao cho khách thì khi đó tỷ lệ hàng sẵn sang trong kho sẽ là là 93%. Còn lại tỷ lệ hàng ngoài kho là 7%. Tất nhiên sự đánh sẽ sai lạc nếu chỉ dựa trên tỷ lệ hàng tồn kho cũng như phương thức đánh giá việc phục vụ khách hàng dựa vào lượng hàng dự trữ trong kho cho khách hàng. Tỷ lệ hoàn thành đơn đặt hàng đo lường sô hàng dự trữ trong kho đã giao cho khách hàng theo tỷ lê % của toàn bộ hàng trong kho mà khách hàng đã đặt. Ví dụ: Nếu một khách hàng đặt tổng cộng 100 thùng hàng và chỉ nhận được 97 thùng hàng thì khi đó tỷ lệ hoàn thành tỷ lệ đơn đặt hàng sẽ là 97%. Để đo lường tỷ lệ hoàn thành đơn đặt hàng cần dựa trên cơ sở đơn đặt hàng ban đầu của khách hàng và khối lượng yêu cầu trước khi có bất cứ sự thay thế, hủy bỏ hay sửa đổi nào khác trong đơn đặt hàng. Phương thức đánh giá nghiêm ngặt nhất về lượng hàng sẵn có để phục vụ khách hàng là tỷ lệ phần trăm những đơn đặt hàng đã được thực hiện đầy đủ và giao cho khách. Số lượng đơn đặt hàng đã hoàn thành loại này là một cách đánh giá chuẩn về sự hoàn hảo của bất cứ hoạt động phân phối vật chất nào. Ba phương thức trên giúp công ty quyết định mức độ hoạt động phân phối đã duy trì thời gian qua. b) Khả năng cung cấp dịch vụ Liên quan đến mức độ, tính chắc chắn và sự linh hoạt của các hoạt động hoàn thành đơn đặt hàng của một công ty. Điểm mấu chốt cảu khả năng cung ứng dịch vụ cho khách hàng là vòng quay đơn đặt hàng đã được đình trước. bao gồm: + Chuyển giao đơn đặt hàng của khách + Chấp nhận thanh toán + Chuẩn bị sẵn hàng hóa + Vận chuyển + Làm vận đơn và giao hàng - Tốc độ cung ứng dịch vụ là tổng thời gian mà khách hàng mong đợi một công ty nơi họ mua hàng tiến hành các công việc. Một khía cạnh quan trọng cảu tốc độ cung ứng là nhận thức của khách hàng về tổng thời gian hoạt động cần thiết để nhận hàng từ nhà bán lẻ, đó chính là cơ sở thích hợp duy nhất để đánh giá tốc độ cung ứng hàng hóa. - Sự phù hợp là một chỉ tiêu quan trọng hơn chỉ tiêu thời gian khi đánh giá khả năng cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Chỉ tiêu sự phù hợp thường để đánh giá một số lớn vòng quay đơn đặt hàng bằng cách so sánh giữa hoạt động thực tế và hoạt động dự kiến theo kế hoạch. Sự phù hợp của toàn bộ vòng quay sẽ là tổng thời gian cần thiết để tiến hành tất cả các hoạt động riêng lẻ. Ví dụ: Khoảng thời gian dự kiến để hoàn thành toàn bộ vòng quay đơn đặt hàng là từ 5 đến 28 ngày theo quan điểm của khách hàng là thời gian cần thiết để một người bán hàng hoàn thành toàn bộ vòng quay đơn đặt hàng so với khoảng thời gian trung bình qua một số vòng quay. Tính linh hoạt đề cập tới khả năng của một công ty trong việc điều tiết các yêu cầu về dịch vụ đặc biệt của khách hàng. * Với 3 tiêu chuẩn đo lường khả năng cung ứng dịch vụ tạo ra một phương pháp đánh giá các hoạt động phân phối vật chất đáp ứng nhu cầu của khách hàng của công ty. Tốc độ cung ứng là quan trọng nhưng sự phù hợp theo thời gian lại quan trọng hơn. Nhằm phát huy tối đa hiệu quả của các hoạt động phân phối vật chất, hầu hết các tổ chức đều dựa vào khả năng linh hoạt bổ sung cho các hoạt động thông thường. c) Chất lượng phục vụ Chất lượng phục vụ đề cập tới khả năng của công ty thực hiện hoàn hảo các hoạt động đáp ứng đơn đặt hàng. Ta phải quan tâm đến 2 chỉ tiêu: sự sẵn có hàng hóa và khả năng phục vụ. Những công ty trội hơn hẳn về chất lượng phục vụ đều có ít nhất 3 đặc điểm: + Thứ nhất họ sử dụng các cơ cấu có thể giúp khách hàng tiếp nhận một cách chính xác và kịp thời các thông tin về đơn đặt hàng và các yêu cầu khác có liên quan đến dịch vụ. + Thứ hai, các hãng cam kết cung ứng dịch vụ với chất lượng cao cần tiến hành các cách thức để đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi đặc biệt của khách hàng mà không phải trì hoản để chờ chấp nhận của cấp trên hoặc sửa sai. + Cuối cùng, những người chỉ đạo các hoạt động dịch vụ cung ứng cho khách hàng khi phải đương đầu với tình huống bất ngờ hoặc nguy cơ sụp đổ thường bộc lộ cái gọi là “Khả năng tạo ra sự phục hồi đáng kinh ngạc”. 8.3.2. Hiệu ứng số không Hiệu ứng số 0 là một nhà cung úng cố gắng cung ứng cho khách hàng những hàng hóa mà họ đã đặt tại nơi và ở vào thời điểm mà họ muốn. Phương pháp để phân phối vật chất tiến dần tới “Hiệu ứng số 0” là sử dụng tổng hợp các yếu tố: Liên minh khách hàng, công nghệ thông tin, chiến lược lưu kho hàng hóa, chi phí vận tải và những chương trình đã được lựa chọn để sử dụng những nguồn lực sẵn có một cách tốt nhất, phù hợp với những yêu cầu quan trọng nhất của khách hàng. 8.3.3. Phân đoạn dịch vụ chọn lọc Một công ty có thể chọn sử dụng khả năng phân phối vật chất cho khách hàng như là một công cụ để dành lợi thế khác biệt. Các công ty đặt chất lượng phân phối vật chấtcao thường thiết kế các chiến lược dịch vụ khách hàng theo hai tiêu chí cơ bản sau: Dịch vụ phải được cung ứng với mức độ tin cậy cao và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu do khách hàng đặt ra và được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Lựa chọn khách hàng để cung ứng những dịch vụ đặc biệt. Yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn là gắn các sản phẩm được tiêu thụ với số lượng này chỉ có thể thực hiện được dựa trên phân tích kỹ càng chỉ tiêu chi phí và lợi nhuận tương đối. Yếu tố cơ bản của chiến lược cung ứng đạt chất lượng cao là tập trung vào những đoạn thị trường chủ yếu hoặc khách hàng sẽ hứa hẹn mang lại một thị trường phần lớn và trung thành đối với nhà cung ứng. Nguồn gốc của các chiến lược hiệu số 0 là mô tả một cách tỷ mỉ độ nhạy cảm của khách hàng tiêm năng đối với việc cung ứng dịch vụ phân phối vật chất có chất lượng cao. 8.4. Thực hiện việc phân phối vật chất tổng thể Việc thiết kế hệ thống kênh phân phối vật chất của một công ty đòi hỏi phải tạo được một cơ cấu hoạt động tổng thể có khả năng đạt được các mục tiêu dịch vụ khách hàng với tổng chi phí thấp nhất. Đối với mỗi mức độ dịch vụ khách hàng khác nhau có một phương án phân phối với tổng chi phí thấp nhất khác nhau. Mục đích của việc thiết kế là: Xác định thiết kế kênh có tổng chi phí phân phối vật chất thấp nhất. Xác lập cơ sở cho việc phân tích độ nhạy của dịch vụ đối với chi phí. 8.4.1. Phân tích tổng chi phí Một công ty phải xác định và đánh giá được toàn bộ chi phí của hệ thống phân phối vật chất. Các chi phí phân phối có thể được chia ra làm hai loại cơ bản: Chi phí có liên quan đến vận chuyển và chi phí có liên quan đến lưu kho. Trong mỗi đề án thiết kế hệ thống phân phối, hai loại chi phí này có ảnh hưởng qua lại với nhau và tạo ra cơ hội chuyển đổi chi phí. Nếu chi phí vận chuyển tăng thì có thể giảm đáng kể chi phí lưu kho. Một sự chuyển đổi sẽ được coi là có ích nếu tổng chi phí lưu kho giảm hơn nhiều so với mức tăng của chi phí vận chuyển. Hình thức đánh đổi chi phí này là lý do tại sao một công ty sau này lại tập trung hàng vào số ít kho hơn là chứa hàng rải rác trong nhiều kho. Chi phí lưu kho giảm do giảm được đáng kể chi phí bảo quản hàng hóa khi chúng được cất giữ trong số ít kho hơn. Mức độ phụ thuộc vào công việc vận chuyển tăng lên, nên tổng chi phí vận chuyển của hàng hóa được lưu giữ theo hệ thống tập trung lớn hơn so với hệ thống phân phối không tập trung. Tuy nhiên, khi cân bằng các khoản chi phí, tổng chi phí lại giảm xuống. Chi phí vận chuyển Chi phí vận chuyển phát sinh do nhu cầu lưu chuyển hàng hóa qua những khoảng cách địa lý. Chi phí thực tế cho hàng hóa gắn liền với công việc vận tải và phụ thuộc vào tính chất vật lý và giá trị của sản phẩm đó. Các sản phẩm khác nhau thường có chi phí vận chuyển khác nhau do có sự khác nhau về mật độ, về tính dễ hư hỏng của chúng. Những nguyên vật liệu nặng hơn sẽ có chi phí vận chuyển cho một đơn vị khối lượng thấp hơn là những thành phẩm nhẹ và có giá trị chế biến cao hơn. Cùng trong một bảng phân loại, hai sản phẩm có kích thước như nhau, cùng với một điểm xuất phát và cùng nơi đến sẽ có giá cước khác nhau đối với những hình thức vận chuyển khác nhau. Hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới chi phí vận tải: Quy mô lô hàng vận chuyển: chi phí vận tải có liên quan đến hiệu quả kinh tế theo qui mô. Theo qui luật chung, lô hàng càng lớn thì chi phí cho mỗi đơn vị trọng tải tính trên một đơn vị khoảng cách càng nhỏ. Hiệu quả kinh tế theo qui mô phản ánh sự chia sẻ giá thành cho các chức năng cơ bản khác như việc bốc dở, giao hàng và hiệu quả thu được qua việc sử dụng các thiết bị được cải tiến. Người ta thường xem xét sự ảnh hưởng của kích thước lô hàng đến chi phí vận chuyển qua sự giảm giá theo số lượng. Cước phí vận chuyển thường được xem xét thông qua khối lượng. Chẳng hạn, cước phí vận chuyển bằng xe tải được tính bằng đầy một xe hoặc ít hơn một xe. Mức cước tối thiểu là một mức cước cố định mà người có hàng phải trả để sử dụng dịch vụ, bất kể khối lượng của lô hàng đó là bao nhiêu. Hiệu quả kinh tế theo qui mô là một nguyên tắc cơ bản để điều hành các phương tiện vận tải. hiệu quả kinh tế theo qui mô như vậy tồn tại ở cả hai phương thức là tự tổ chức vận chuyển và thuê ngoài. Chiều dài quãng đường vận chuyển (khoảng cách vận chuyển hàng): Theo qui luật chung, quãng đường vận chuyển càng dài thì chi phí vận tải cho mỗi đơn vị hàng vận chuyển càng thấp. Ở đây nguyên tắc hiệu quả kinh tế theo qui mô có liên quan đến chiều dài của hành trình vận chuyển, ảnh hưởng của khoảng cách đến chi phí vận tải. Những điều này khuyến khích việc thiết kế hệ thống phân phối vật chất tăng cường những chuyến vận tải đường dài thay vìviệc phân phối những chuyến hàng nhỏ trên những đoạn ngắn của quãng đường đó. Điều này có thể đạt được đối với một mạng lưới phân phối hàng phi tập trung. Một hệ thống phân phối hàng hóa được thiết lập với mục đích tối thiểu hóa chi phí vận chuyển cần tối đa hóa quãng đường vận chuyển với những lô hàng nhỏ, tăng cường những chuyến vận tải lớn nhất sẽ tạo ra chi phí nhỏ nhất. Chi phí lưu kho Chi phí lưu kho phụ thuộc vào thời gian. Hàng hóa lưu kho đặc trưng tất yếu công ty sản xuất hàng hóa cũng như của toàn hệ thống kênh. Để giảm chi phí và rủi ro trong kinh doanh, các công ty mong muốn lưu giữ hàng hóa trong kho càng ít càng tốt. Mục đích là để đạt được mức đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao nhất, việc đánh giá tổng thể vấn để hàng hóa lưu kho yêu cầu: Phải xác định được giá thành Thiết lập được các phương án dịch vụ phân phối vật chất Xác định được mức độ phân tán về mặt địa lý Hàng hóa phải được lưu giữ trong những phương tiện phân phối và chi phí có liên quan đến bảo hiểm, hao mòn vô hình,thực hiện đơn đặt hàng và lưu giữ thẻ kho…tất cả phải được tính vào tổng chi phí lưu kho hàng hóa. Yếu tố quan trọng để đạt được chi phí lưu kho thấp là sản lượng hàng hóa hoặc tốc độ quay vòng hàng hóa. Các công ty luôn tìm kiếm các giải pháp phân phối vật chất khuyến khích đạt tốc độ cao nhất và giảm lượng hàng hóa lưu kho. Các phương án dịch vụ phân phối vật chất đòi hỏi lượng hàng lưu kho ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng tài sản có trong toàn bộ kênh phân phối. Luôn luôn tồn tại mối liên hệ giữa tính sẵn có của hàng hóa cho khách hàng và qui mô của khối lượng hàng hóa lưu kho. Yếu tố ảnh hưởng tới tổng lượng hàng hóa lưu kho cần phải có để hỗ trợ cho các hoạt đông kinh doanh là mức phân tán về mặt địa lýtrong thiết kế kênh phân phối. Những vấn đề chủ yếu là: Bao nhiêu địa điểm lưu kho mà công ty cần phải có để đảm bảo phục vụ cho nhu cầu khách hàng. Mặt hàng nào hoặc nhóm hàng nào nên giữ lại ở từng địa điểm Ảnh hưởng tổng hợp về mặt kinh tế của tính sẵn có của hàng hóa và địa điểm lưu kho dường như thúc đẩy các chính sách lưu kho tới việc tập trung hóa mà ở đó sử dụng ít phương tiện lưu giữ hơn và tại những điểm mang tính chiến lược. Trên cơ sở tăng cường lượng hàng hóa lưu giữ, tính sẵn có của hàng hóa sẽ được nâng cao hoặc được hỗ trợ trên cơ sở sử dụng ít tài sản hơn. Nhưng việc tập trung hóa như vậy ảnh hưởng trực tiếp tới khía cạnh tiềm năng của dịch vụ phân phối vật chất cho khách hàng avf do vậy tốc độ, tính ổn định và tính linh hoạt tất cả sẽ bị ảnh hưởng bởi việc thiết kế hệ thống. Do vậy, lợi ích kinh tế chủ yếu hoặc động lực lưu kho hàng hóa đã bắt buộc việc thiết kế kênh phân phối vật chất của một công ty dựa trên những yếu tố ảnh hưởng tới những vấn đề kinh tế vận tải. Chi phí tích hợp Phân tích tổng hợp chi phí dựa trên việc dung hòa các nguyên tắc có liên quan đến tính kinh tế của vận tải và lưu kho. Sự dung hòa đó đạt được bằng việc coi mối liên hệ giữa Tổng chi phí phân phối hàng hóa thấp nhất không nằm ở điểm có chi phí vận chuyển thấp mà cũng không nằm tại điểm có chi phí lưu kho thấp. Bản chất của chi phí tích hợp là phát hiện ra qui luật tác động qua lại giữa vận chuyển và lưu kho khi gắn việc đánh đổi chi phí với các yêu cầu về phân phối mà hãng đang tìm kiếm. Việc tạo ra hệ thống phân phối có tổng chi phí thấp hơn chính là sự khác nhau quan trọng giữa các hãng cùng hoạt động trong một ngành. Việc chi phí phát sinh như thế nào phụ thuộc vào chủng loại sản phẩm của hãng và cơ cấu khách hàng. Các hãng cũng có những khác biệt quan trọng về yêu cầu phân phối hàng do phụ thuộc vào bản chất khác nhau của các sản phẩm được phân phối. những yêu cầu về thiết kế kênh phân phối vậ
Luận văn liên quan