Ngân hàng thương mại (NHTM) đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ : “Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2010 (điều 4, khoản 3) chỉ rõ: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trong đó, “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” . Cũng theo Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” .
Như vậy, NHTM là một định chế tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung và sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và cá nhân với mục đích phát triển kinh tế xã hội.
92 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11202 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I. Cơ sở lý luận về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại và rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại
Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ Tham khảo tại:
: “Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2010 (điều 4, khoản 3) chỉ rõ: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trong đó, “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” Điều 4, khoản 2, Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010
. Cũng theo Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” Điều 4, khoản 1, Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010
.
Như vậy, NHTM là một định chế tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung và sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và cá nhân với mục đích phát triển kinh tế xã hội.
Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
Nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM (Tài sản Nợ - TSN)
Đây là nghiệp vụ tạo nguồn vốn kinh doanh cho NHTM. Hoạt động nguồn vốn được phản ánh thông qua kết cấu nguồn vốn của NHTM, gồm:
Vốn của ngân hàng: Bao gồm vốn tự có và vốn coi như tự có
Vốn tự có gồm: Vốn điều lệ và các quỹ dự trữ.
Vốn điều lệ: Là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản điều lệ của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi NHTM được thành lập. Quy mô vốn điều lệ của NHTM lớn hay nhỏ tùy thuộc vào quy mô của ngân hàng. Vốn điều lệ được sử dụng vào mục đích mua sắm tài sản, trang thiết bị ban đầu cần thiết cho hoạt động của ngân hang, góp vốn liên doanh, cho các thành phần kinh tế vay và thực hiện dịch vụ khác của ngân hàng. NHTM không được sử dụng nguồn vốn nào khác ngoài vốn điều lệ để đầu từ vào tài sản cố định của ngân hàng và hùn vốn liên doanh.
Quỹ dự trữ: Được hình thành từ hai quỹ là quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Việc hình thành các quỹ này nhằm tăng vốn tự có của ngân hàng, đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh.
Vốn coi như tự có:
Bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây là khoản vốn được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng tạm thời chưa được sử dụng ví dụ như: Lợi nhuận chưa phân bổ, tiền lương chưa đến hạn thanh toán…
Vốn huy động: Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các NHTM, gồm: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm…
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định vì ngân hàng nắm được những kỳ luân chuyển của vốn, vì vậy, ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn được.
Vốn đi vay: Nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của NHTM. Thuộc loại này bao gồm: Vay từ Ngân hàng Trung ương (NHTW), vay từ các tổ chức tín dụng khác, vay từ công ty, vay từ thị trường tài chính trong nước , vay nước ngoài…
Các nguồn vốn khác: Bao gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng, vốn hình thành từ trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ví dụ nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp…
Nghiệp vụ sử dụng vốn (Tài sản Có - TSC)
Nghiệp vụ TSC của NHTM bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng nguồn vốn của ngân hàng, gồm:
Nghiệp vụ ngân quỹ:
Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng tiền mặt dưới dạng như: Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng, tiền gửi tại các NHTM khác, tiền gửi tại NHTW, tiền mặt trong quá trình thu. Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có tính lỏng cao để có thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần, lượng tiền mặt trong nghiệp vụ ngân quỹ chỉ chiếm một lượng nhỏ và tỷ trọng này đang ngày càng giảm.
Nghiệp vụ tín dụng: Tín dụng ngân hàng bao gồm các hình thức: Cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính. Trong đó, hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM.
Nghiệp vụ đầu tư: Là nghiệp vụ mà NHTM dùng vốn của mình mua các chứng khoán hoặc đầu tư theo dự án. Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng còn cho phép NHTM dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hay của tố chức tín dụng khác Điều 103, Luật Tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010
.
Nghiệp vụ ngoại bảng
Hoạt động ngoại bảng được định nghĩa là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng) nhưng lại có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối nội bảng Ngân hàng thương mại – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
, bởi nó có thể tạo ra những TSC và TSN bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Những khoản mục ngoại bảng này tác động mạnh mẽ đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng. Một số hoạt động ngoại bảng tương đối thông dụng.
Loại thứ 1: Các hoạt động tạo ra thu nhập hoặc chi phí mà không tạo ra một loại tài sản có hoặc nợ nào. Ví dụ: NHTM đóng vai trò là người môi giới hoặc ngân hàng thực hiện dịch vụ quản lý tiền mặt.
Loại thứ 2: Là những cam kết mà theo đó, NHTM chấp thuận thực hiện một hành động trong tương lai và được hưởng phí thực hiện cam kết đó. Các loại cam kết chủ yếu ngoại bảng của NHTM thường gồm 3 loại:
Bảo lãnh tài chính: Được thực hiện bởi một ngân hàng (bên bảo lãnh) đứng đằng sau nghĩa vụ của một bên thứ ba và thực hiện nghĩa vụ đó trong trường hợp bên thứ ba không thực hiện được như: Tín dụng thư dự phòng, hạn mức tín dụng, cam kết tái cấp vốn, thể thức phát hành giấy tờ có giá, chứng khoán hóa..
Tài trợ ngoại thương gồm: Tín dụng thư thương mại và tham gia chấp nhận thanh toán. Cả hai hình thức này đều được sử dụng để tài trợ cho thương mại quốc tế. Tín dụng thư đòi hỏi ngân hàng phải bảo đảm rằng khách hàng của mình sẽ thanh toán một khoản nợ đã thỏa thuận cho một bên thứ ba.
Các hoạt động đầu tư: Không thể hiện trên bảng cân đối tài sản bao gồm các công cụ phái sinh như: Cam kết tương lai, các hợp đồng tài chính giao sau, hoán đổi lãi suất, quyền chọn mua/bán, hoán đổi tiền tệ.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Các khái niệm:
Khái niệm rủi ro:
Theo định nghĩa chung, rủi ro là xác suất gặp nguy hiểm từ bất kỳ một sự cố tiêu cực nào như bị thương, mất cắp…do tác động của yếu tố gây nguy hiểm bên trong hoặc bên ngoài gây nên và điều này có thể phòng ngừa hạn chế được bằng những dự tính từ trước Tham khảo tại: Businessdictionary.com
.
Rủi ro gây mất mát thiệt hại, cho nên không ai mong đợi nó nhưng rủi ro là bất trắc vì thế không lệ thuộc vào con người muốn hay không. Tuy nhiên, rủi ro lại có thể đo lường được nên đấy chính là cánh cửa hé mở cho các nhà kinh doanh đi vào thế giới rủi ro để tìm kiếm vận may, tìm kiếm sự thành công. Muốn tồn tại và phát triển trong thế giới cạnh tranh, các nhà kinh doanh cần tiên lượng được cái gì đang chờ đón để có những giải pháp ngăn ngừa được rủi ro và chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý chứ không phải né tránh nó.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:
Dưới góc độ tài chính, rủi ro được hiểu là “xác suất lợi nhuận thực tế thu được từ một khoản đầu tư thấp hơn so với mong đợi” Tham khảo tại: Businessdictionary.com
.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng phải đối diện với rủi ro. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là “những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTM” Quản trị Ngân hàng thương mại – PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi
. Rủi ro có thể được đo lường cho các loại sản phẩm dịch vụ khác nhau của ngân hàng. Thông thường mức lợi nhuận mong đợi càng cao thì xác suất xảy ra rủi ro càng lớn.
Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có thể được phân thành các loại như sau:
Rủi ro tín dụng: Là rủi ro phát sinh khi ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc khách hàng thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn như đã ký kết với ngân hàng trong hợp đồng Commercial Bank – Benton E.Gup
. Rủi ro tín dụng là kết quả của việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và ngân hàng nhận được giấy nhận nợ do con nợ phát hành với cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ và đúng kỳ hạn cho ngân hàng. Do đó, tại thời điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ có nghĩa là ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều.
Rủi ro lãi suất: Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính Commercial Bank – Benton E.Gup
. Lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế, hơn nữa nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ, vì vậy lãi suất thường xuyên biến động ở mức độ khác nhau có thể dẫn đến những tổn thất cho ngân hàng. Giá trị thị trường của các tài sản, các thu nhập từ có thể thay đổi khi lãi suất biến động. Tuy nhiên, ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng cách sử dụng các chứng khoán phái sinh hoặc kỹ thuật quản lý Tài sản Nợ, Tài sản Có.
Rủi ro hối đoái: Là khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá dự tính của ngân hàng Quản trị ngân hàng thương mại – PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
.
Rủi ro thanh khoản (RRTK)
RRTK được định nghĩa là rủi ro liên quan việc ngân hàng thiếu ngân quỹ hoặc tài sản ngắn hạn mang tính khả thi để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và người đi vay Quản trị ngân hàng thương mại – PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
. Thiếu ngân quỹ ở đây có thể là thiếu dự trữ tại ngân hàng, hoặc không thể huy động nguồn vốn từ bên ngoài ngay lập tức.
Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Xuất phát từ tính chất của hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí, trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng này. Tuy nhiên, những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty này phát hành. Điều này dẫn đến bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản nội bảng – nghĩa là ngân hàng phải sử dụng đến vốn kinh doanh của mình để trang trải những gì đã cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng đi đến phá sản.
Ngày nay hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng, ví dụ như ngân hàng phát hành thư tín dụng cho nhà nhập khẩu, hoạt động bao thầu phát hành trái phiếu, trạng thái ngoại hối trong nghiệp vụ kỳ hạn, tương lai, hoán đổi, quyền chọn, và các nghiệp vụ phái sinh khác… nhưng nếu việc điều hành không hiệu quả hoặc đánh giá không đúng tác dụng của các nghiệp vụ ngoại bảng thì có thể dẫn đến những tổn thất to lớn.
Rủi ro công nghệ và hoạt động:
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được những khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
. Rủi ro hoạt động Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Rủi ro này có mối quan hệ mật thiết với rủi ro công nghệ.
Các loại rủi ro khác: bao gồm:
Rủi ro quốc gia, thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh làm cho các điều kiện thị trường tài chính thay đổi đột biến không dự tính trước, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, trộm cắp, lừa đảo… Ngoài ra còn phải kể đến các rủi ro bắt nguồn từ yếu tố vĩ mô như lạm phát, sự biến động của giá cả hàng hóa, thất nghiệp…đều có ảnh hưởng đến sự thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng
Bản chất của rủi ro thanh khoản
Khái niệm thanh khoản:
Dưới góc độ tài sản: Thanh khoản là khả năng chuyển hóa thành tiền của tài sản và ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng các tiêu chí sau Ngân hàng thương mại – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
: Có sẵn số lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường để giao dịch, có sẵn thời gian để giao dịch, giá cả hợp lý.
Trong thực tế những tài sản có tính thanh khoản cao gồm các giấy tờ có giá như: Trái phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu…những tài sản có tính thanh khoản thấp như bất động sản, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị…
Dưới góc độ ngân hàng, thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng đầy đủ và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động giao dịch như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch tài chính khác Ngán hàng thương mại – PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến
.
Bản chất của rủi ro thanh khoản:
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, thanh khoản là một thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, giải ngân cho vay, thực hiện chuyển khoản thanh toán…Nếu một NHTM mất khả năng đáp ứng các nhu cầu này thì có thể nói NHTM đã rơi vào tình trạng khó khăn thanh toán.
Khả năng đáp ứng và nhu cầu về sử dụng vốn khả dụng thể hiện ở cung thanh khoản (LS- Liquidity Supply) và cầu thanh khoản (LD – Liquidity Demand). Cung thanh khoản bao gồm: Tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại các TCTD khác, thu nhận tiền gửi từ khách hàng, khách hàng tín dụng hoàn trả các khoản gốc và lãi, bán các TSC của NHTM, vay từ thị trường liên ngân hàng, thu từ các khoản nợ phải thu khác. Cầu thanh khoản bao gồm: Hoàn trả tiền gửi cho khách hàng, giải ngân các khoản tín dụng cho khách hàng, hoàn trả các khoản đi vay, chuyển tiền thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, chi các khoản chi phí hoạt động, chi trả các khoản nộp Ngân sách Nhà nước (Thuế, phí, lệ phí…), trả cổ tức (NHTM cổ phần), chi trả các khoản nợ khác.
Trạng thái thanh khoản ròng (NLP –Net Liquidity Position) hay còn gọi là khe hở thanh khoản của NHTM được tính bằng: Cung thanh khoản – Cầu thanh khoản. Nếu NLP>0 thì NHTM đang ở trạng thái thặng dư thanh khoản. Nếu NLP<0 thì NHTM đang ở trạng thái thâm hụt thanh khoản. Vậy bản chất của RRTK là gì?
Đến nay khi nghiên cứu về thanh khoản, đã có nhiều quan điểm khác nhau về RRTK. Theo tác giả cuốn sách Commercial banking – the management of risk, Benton E.Gup thì: Rủi ro thanh khoản là rủi ro về tổn thất phát sinh từ trạng thái thiếu hụt tiền mặt hoặc tài sản tương đương tiền, hay đặc biệt hơn là rủi ro về tổn thất phát sinh từ trạng thái thiếu khả năng thu xếp được nguồn tài trợ với mức độ hợp lý về chi phí, bán hay thu xếp một tài sản với mức giá hợp lý, nhằm trang trải một nghĩa vụ đã được dự định hoặc bất định.
Theo tác giả cuốn sách Quản trị NHTM, Phan Thị Cúc thì: “Đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp các ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền, hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán”.
Như vậy, có nhiều ý kiến khác nhau về rủi ro thanh khoản, nhưng có thể tổng hợp lại và nhìn từ góc độ NHTM, có thể hiểu: Rủi ro thanh khoản là rủi ro phát sinh từ trạng thái mà NHTM không có được đủ vốn khả dụng – cung thanh khoản vào thời điểm mà NHTM cần để đáp ứng cầu thanh khoản, trạng thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối cùng của NHTM.
Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản
RRTK là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán, tức là phải đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và các nhu cầu thanh toán đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện thì không chỉ nó ảnh hưởng đến bản thân NHTM mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, nếu RRTK xảy ra, tùy theo mức độ nghiêm trọng mà ngân hàng có thể phải chịu: Chuyển hóa các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao; tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví dụ, phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay; đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập; mất uy tín dẫn đến mất khách hàng.
Thứ hai, trong trường hợp đặc biệt, RRTK có thể đẩy ngân hàng tới tình trạng mất khả năng thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng. Khi một ngân hàng mất đi khả năng thanh khoản thì sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối với không chỉ chính bản thân ngân hàng mà còn đối với khách hàng của các ngân hàng khác. Họ sợ rằng, ngân hàng nơi mình gửi tiền cũng có thể phá sản nên tìm mọi cách để rút tiền khỏi ngân hàng đó. Nếu niềm tin của công chúng bị lung lay thì có thể dẫn đến hàng loạt ngân hàng mất khả năng thanh toán chỉ trong một thời gian ngắn và khiến cả hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng hỗn loạn, sự hỗn loạn này của hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội – chính trị của một quốc gia.
Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản và các nhân tố làm gia tăng rủi ro thanh khoản
Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản:
Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa TSC và TSN: Khi tiến hành huy động vốn, không phải lúc nào NHTM cũng huy động được nguồn vốn có kỳ hạn dài. Thực tế cho thấy, các nguồn vốn huy động được thường có kỳ hạn ngắn, nhưng phần lớn những khoản cho vay và đầu tư lại có kỳ hạn dài hơn. Điều này làm mất cân xứng giữa ngày đáo hạn của các TSC và TSN nên dòng tiền vào bên TSC thường không trùng khít để trang trải dòng tiền ra bên TSN. Vậy nên, NHTM luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản.
Biến động lãi suất: Khi lãi suất trên thị trường tài chính thay đổi, khách hàng gửi tiền có xu hướng rút tiền gửi của họ ở NHTM có lãi suất thấp và tìm kiếm NHTM khác có lãi suất huy động cao hơn. Trong khi đó, những khách hàng có nhu cầu tín dụng sẽ tìm cách trì hoãn việc hoàn trả các khoản nợ đã đáo hạn hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất thấp, tìm cách trả trước hạn hoặc trì hoãn việc rút vốn vay với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất cao. Như vậy, biến động lãi suất đồng thời ảnh hưởng đến cả tiền gửi và tiền vay tức dòng tiền vào, dòng tiền ra và sau đó là đến thanh khoản của NHTM.
Tính chất đặc biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn sẵn sàng đáp ứng cầu thanh khoản: Đối với lĩnh vực kinh doanh khác (không phải kinh doanh tiền tệ), các