Sinh học phát triển cá thể động vật

Sinh sản là một trong những đặc trưng cơ bản của sinh vật để tiếp tục duy trì sự tồn tại của loài. Sinh vật muốn tồn tại không chỉ có các hoạt động trao đổi chất cảm ứng, sinh trưởng mà cần phải sinh sản để duy trì nòi giống. Khả năng sinh sản thể hiện ngay ở các sinh vật vô cùng nhỏ bé là viut cho đến các sinh vật đa bào bậc cao. Ở mức dộ cơ thể toàn vẹn, sự sinh sản thể hiện bằng nhiều dạng rất khác nhau: từ sự phân bào đơn giản cho đến sự sinh sản hữu tính phức tạp. Ở động vật đa bào bậc cao, quá trình sinh sản không chỉ là quá trình di truyền mà nó liên quan đến sự điều chỉnh nội tiết sinh trưởng, sự rụng trứng và sinh tinh. Liên quan đến sự gặp gỡ của giao tử đực và giao tử cái để tạo thành trứng thụ tinh hay hợp tử Thê giới động vật vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi nhóm động vật mới hình thành đều mang những đặc điểm cấu trúc và chưc năng đặc biệt cho phép chúng thích nghi tốt nhất với môi trường sống. Sự sinh sản là một trong những chức năng đặc biệt ấy. Mục tiêu cuối cùng của những thích nghi này cũng nhằm đạt hiệu quả sinh sản tối ưu. Đời sống của cá thể thì có giới hạn nhưng sự tồn tại của quần thể sẽ vượt khỏi giới hạn ấy nhờ sự ra đời của cá thể mới. Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn tôi chọn đề tài “Sinh sản của động vật có xương sống”.

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5344 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sinh học phát triển cá thể động vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Phần I. Đặt vấn đề 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích- nội dung nghiên cứu 2 Phương pháp nghiên cứu 2 Phần II. Nội dung 1. Lớp cá miệng tròn 3 2. Lớp cá sụn 3 3. Lớp cá xương 5 3.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản 5 3.2. Tập tính sinh sản 7 4. Lớp lưỡng cư 8 4.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản 8 4.2. Tập tính sinh sản 11 5. Lớp bò sát 15 5.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản 15 5.2. Tập tính sinh sản 17 6. Lớp chim 19 6.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản 19 6.2. Tập tính sinh sản 20 7. Lớp thú 23 7.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản 23 7.2. Tập tính sinh sản 26 Phần III. Kết luận và đề nghị Tài liệu tham khảo PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Lý do chọn đề tài. Sinh sản là một trong những đặc trưng cơ bản của sinh vật để tiếp tục duy trì sự tồn tại của loài. Sinh vật muốn tồn tại không chỉ có các hoạt động trao đổi chất cảm ứng, sinh trưởng mà cần phải sinh sản để duy trì nòi giống. Khả năng sinh sản thể hiện ngay ở các sinh vật vô cùng nhỏ bé là viut cho đến các sinh vật đa bào bậc cao. Ở mức dộ cơ thể toàn vẹn, sự sinh sản thể hiện bằng nhiều dạng rất khác nhau: từ sự phân bào đơn giản cho đến sự sinh sản hữu tính phức tạp. Ở động vật đa bào bậc cao, quá trình sinh sản không chỉ là quá trình di truyền mà nó liên quan đến sự điều chỉnh nội tiết sinh trưởng, sự rụng trứng và sinh tinh. Liên quan đến sự gặp gỡ của giao tử đực và giao tử cái để tạo thành trứng thụ tinh hay hợp tử Thê giới động vật vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi nhóm động vật mới hình thành đều mang những đặc điểm cấu trúc và chưc năng đặc biệt cho phép chúng thích nghi tốt nhất với môi trường sống. Sự sinh sản là một trong những chức năng đặc biệt ấy. Mục tiêu cuối cùng của những thích nghi này cũng nhằm đạt hiệu quả sinh sản tối ưu. Đời sống của cá thể thì có giới hạn nhưng sự tồn tại của quần thể sẽ vượt khỏi giới hạn ấy nhờ sự ra đời của cá thể mới. Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn tôi chọn đề tài “Sinh sản của động vật có xương sống”. Mục đích - nội dung nghiên cứu Tìm hiểu đặc điểm, cấu tạo hệ sinh dục của động vật. Tập tính sinh sản của động vật 3. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu lý thuyết. Nghiên cứu thông qua tìm hiểu trong sách, trong báo, trên mạng thông tin internet… NỘI DUNG 1. Lớp Cá Miệng tròn (Cyclostomata) 1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục Phân tính. tuyến sinh dục chỉ có một buồng trứng hay một tinh hoàn, không có ống dẫn. Trứng và tinh trùng lọt qua vết nứt thành tuyến vào thể xoang, qua lỗ sinh dục vào xoang niệu sinh dục rồi ra ngoài. thụ tinh trong nước. . - Tuyến sinh dục đực Tuyến sinh dục con đực là tinh hoàn. Tinh trùng lọt qua thành cơ thể vào xoang niệu sinh dục rồi ra ngoài. Sự thụ tinh thực hiện trong môi trường nước. - Tuyến sinh dục cái Tuyến sinh dục cái là một buồng trứng được treo ở mặt lưng xoang bụng nhờ màng bụng, không có ống dẫn trứng. Trứng chín lọt qua vết nứt của thành tuyến vào thể xoang, rồi tập trung trong xoang niệu sinh dục trước khi ra ngoài. 2. Lớp Cá sụn (Chondrichthyes) 2.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản. Gồm một đôi tuyến nằm ở phần lưng của xoang cơ thể. Cá sụn có cơ quan giao cấu ( hình 6 ) nên trứng được thụ tinh trong ống dẫn trứng. Phân tính và thụ tinh trong. Đẻ trứng lớn giàu noãn hoàng hay đẻ con. Hình 6: Cơ quan giao cấu của cá sụn - Tuyến sinh dục đực Con đực có một đôi tinh hoàn, đôi tinh quản (tương ứng với ống Vonphơ) thông với xoang niệu sinh dục. Phần trên của tinh quản có uốn khúc, tương ứng với phó tinh quản, phía dưới tinh quản phình rộng thành túi tinh. Con đực có 2 gai giao cấu nằm ở mặt trong của vây bụng. Gai giao cấu được hình thành nhờ sự biến đổi của cơ gân ở gốc vây bụng ( Hình 7A). - Tuyến sinh dục cái Con cái có một đôi buồng trứng, một đôi ống dẫn trứng (tương ứng với ống Muller). Phía trước có phễu thông với thể xoang, phía dưới phình ra hình thành tuyến vỏ tiết chất vỏ trứng. Phần cuối phình rộng hình thành tử cung, thông với huyệt. Trứng chín rơi vào xoang bụng rồi vào phễu của ống dẫn trứng ( Hình 7B ). - Cấu tạo trứng Số lượng trứng ít hơn so với cá xương.Trứng được thụ tinh trước khi tới phần tuyến vỏ trứng và ống dẫn. Có các loài đẻ trứng, có 4 tua dài xoắn ở 4 góc. Có loài đẻ con: Một số đẻ con thực sự (thai sinh) thì trứng có vỏ rất mỏng và rất ít noãn hoàng, phôi phát triển trong ống dẫn trứng và được xem như một nhau thai nguyên thủy. Một số loài đẻ trứng thai có vỏ mỏng và nhiều noãn hoàng, phôi phát triển trong ống dẫn trứng hoàn toàn nhờ vào noãn hoàng. Hình 7: Hệ niệu sinh dục Cá sụn ( Trần Kiên, 2005) A. Cá đực; B: Cá Cái; 1: Tinh hoàn; 2. Ống dẫn niệu; 3. Ống dẫn niệu thứ cấp; 4. Ống tiếp tinh; 5. Phó tinh hoàn; 6. Tuyến Leibdig; 7. Ống Wolff; 8. Phần phình cuối thận; 9.Huyệt; 10. khúc tuyến; 11. Tử cung có trứng bên trong; 12. Buồng trứng; 13. Trực tràng; 14: Hậu môn; 15. Lỗ bài tiết; 16. Lỗ sinh dục 3. Lớp Cá xương (Osteichthyes) 3.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản. Hầu hết cá đơn tính. Thụ tinh ngoài và phát triển ngoài cơ thể mẹ. Tuyến sinh dục gồm một đôi lớn chạy dọc hai bên cột sống ở mặt lưng của xoang cơ thể ( hình 8 ). Tuyến có màng bao quanh và ở gốc bao kéo dài thành ống dẫn. Nguồn gốc của ống dẫn sinh dục là phần kéo dài của mang bao cơ quan sinh dục. Như vậy ống dẫn sinh dục ở cá xương được hình thành riêng biệt không liên quan đến ống Muller và ống Wolff. Trứng đoạn hoàng. Ấu trùng có sự sai khác hình dạng với trưởng thành. - Tuyến sinh dục đực Con đực có 2 dịch hoàn hình dải, dài; màu trắng đục, phân thành các thuỳ con. Phần cuối tinh hoàn có ống dẫn tinh ngắn, hai ống dẫn nhập làm một đổ vào xoang niệu sinh dục. - Tuyến sinh dục cái Con cái có 2 buồng trứng màu trắng - vàng. Hai ống dẫn trứng ngắn nhập với nhau rồi đổ vào xoang niệu sinh dục hay vào huyệt hoặc đổ ra huyệt sinh dục riêng biệt. Hệ niệu sinh dục của cá có sai khác nhau đối với cá xương và cá phổi: Ở cá phổi, ống dẫn sinh dục do ống Volff và ống Muller biến đổi thành. Ở con cái ống Muller thành ống dẫn trứng, ở con đực, ống Volff thành ống dẫn tinh. Ở các xương ống dẫn sinh dục không liên quan gì đến ống Volff hay Muler, mà được hình thành mới, ống Wolff làm nhiệm vụ dẫn niệu ở cả cá đực và cái. - Cấu tạo trứng Có 2 loại trứng là trứng nổi và trứng chìm. Trứng nổi có kích thước nhỏ hơn, có giọt mỡ lớn làm phao, trứng cìm có màng dính để trứng bám vào đá, cây thủy sinh hay gắn với nhau thành đám. 3.2. Tập tính sinh sản - Tập tính đẻ trứng và nuôi con Ở một số loài cá như cá hồi tá hồi sống trong môi trường "nước động". Cá hồi sinh ra ở môi trường nước ngọt, nhưng cá con chỉ sống một thời gian ngắn ở môi trường này rồi tự bơi ra biển. Phần lớn quãng đời của cá hồi là sống trong môi trường nước mặn. Cá hồi di cư vì hai lý do: nguồn thức ăn và địa điểm sinh sản. Nguồn thức ăn của cá hồi là ở biển, trong khi đó cá lại sinh sản ở vùng nước ngọt. Sự di cư ngược dòng sông về các bãi đẻ chỉ xảy ra một lần trong đời của hầu hết cá hồi (Salmon). Khi đến tuổi sinh sản, cá hồi di cư hàng dặm để các bãi đẻ trứng. Khi về đến cửa sông, chúng tụ lại trong vùng nước lợ (nước hơi mặn) và đợi con nước lớn đưa chúng ngược lên dòng sông. Không giống các loài động vật khác, con cái bao giờ cũng mang thai, nhưng ở giống cá ngựa, con đực lại "ấp ủ" thai nhi trong một chiếc túi trên cơ thể của chúng và đảm nhận quá trình sinh sản. Cá ngựa đực chỉ sản sinh ra một lượng tinh trùng nhỏ và cơ hội thụ tinh cho trứng của cá ngựa cái là rất ít.Để khắc phục tình trạng thiếu tinh trùng, cá ngựa đực vàng đã sản sinh ra hai loại tinh trùng. Điều ngạc nhiên là tinh trùng của cá ngựa đực bị tống khỏi cơ thể và rơi vào nước biển, nhưng chúng vẫn cố tìm được chiếc túi của con cá ngựa đực, nơi mà cá ngựa cái đã tin cậy "đặt" vào đó những quả trứng.Tất cả cá ngựa cái chỉ làm nhiệm vụ đẻ trứng vào túi của con cá ngựa đực - quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng 5-10 giây. Nhưng tinh trùng cá ngựa đực bao giờ cũng nhanh chóng tìm được đường vào được chiếc túi này vì khi đã có trứng, chiếc túi này sẽ nhanh chóng đóng lại và được bịt kín. Ở một loài như cá quả con cái thành thục có bụng to, phần ngực căng tròn vẩy trắng, mồm hơi vàng, lỗ sinh dục to và lồi ra có hình tam giác. ở chỗ có nhiều rong cỏ cá cái dùng cỏ làm ổ, sau đó cá cái và cá đực kéo đến đẻ trứng và thụ tinh ở đây (đẻ trứng vào sáng sớm). Ðẻ xong cả con đực và cái không rời khỏi ổ mà nằm phục dưới đáy bảo vệ trứng cho đến khi nở thành con mới rời ổ và dẫn đàn con đi kiếm ăn, lúc này cũng là lúc mà cá bố mẹ ăn cả thịt những con cá con khác đã tách đàn. 4. Lớp Lưỡng cư (Amphibia) 4.1. Đặc điểm về cơ quan sinh sản      Ðặc điểm cấu tạo hệ sinh dục thể hiện sự thích nghi với đời sống nửa nước, nửa cạn. Cá thể đực có một đôi tinh hoàn. Sản phẩm sinh dục đổ chung với ống dẫn niệu. Cá thể cái có buồng trứng, ống dẫn trứng. Lỗ sinh dục, lỗ bài tiết và lỗ hậu môn đều đổ vào huyệt.Thụ tinh ngoài           Hình 10: Nội quan ếch (Đào Văn Tiến, 1977) 1.Tim 2.Phổi 3.Gan 4.Túi mật 5.Dạ dày 6.Tuyến tuỵ 7.Ruột tá 8.Ruột non 9.Ruột thẳng 10.Lách 11.Huyệt 12.Bóng đái 13. Thận 14. Ống dẫn niệu 15. Ống dẫn trứng phải 16.Thể mở 17.Buồng trứng phải 18.Tử cung 19. Động mạch chủ lưng 20.Tĩnh mạch chính sau 21. Động mạch cảnh 22.Cung động mạch chủ trái 23. Động mạch phổi Hình 11: Hệ bài tiết và sinh dục ếch (Đào Văn Tiến, 1977) A. Ếch đực: 1.Tinh hoàn 2.Thể mở 3.Thận 4. Ống dẫn niệu 5.Túi tinh 6.Huyệt 7.Bóng đái 8.Tĩnh mạch chủ sau 9. Ống dẫn tinh 10.Tuyến trên thận B. Ếch cái: 1.Phễu ống dẫn trứng 2. Ống dẫn trứng 3.Tử cung 4.Huyệt 5.Bóng đái 6.Buồng trứng phải 7.Thận 8.Thể mở - Tuyến sinh dục đực Con đực có một đôi tinh hoàn hình đĩa dài ( lưỡng thế không chân ) hoặc ngắn ( lưỡng thể có đuôi) hay hình trứng ( lưỡng thể không đuôi) có màu trắng nhạt bám vào mặt bụng của thận. Phía trên có thể mỡ màu vàng để nuôi tinh hoàn. Thể mỡ vàng có thể thay đổi theo mùa và theo giai đoạn phát triển cá thể. Nó phát triển theo chiều nghịch sự phát triển của tuyến sinh dục. Điều này có nghĩa là tuyến sinh dục phát triển thì thể vàng ( thể mỡ ) tiêu giảng và ngược lại tuyến sinh dục chưa phát triển thì thể vàng khá lớn. Ví dụ vào mùa sinh sản ( xuân –hè ) tinh hoàn phát triển lớn, thể vàng tiêu giảm ; Ngoài mùa sinh sản tinh hoàn nhỏ, thể vàng lớn. Ống dẫn tinh là ống Volff. Nhiều loài ếch có phần đuôi của ống Wolff phình thành nang, nơi tích trữ tinh tạm thời. Tinh nang cũng như toàn bộ ống dẫn tinh rất lớn vào mùa sinh dục ( Hình 11A ). Bộ máy sinh dục dực của lưỡng cư có những cấu trúc khác nhau dựa theo mối quan hệ giữa tinh hoàn, thận và ống Wolff. ( hình 12 ) Kiểu ếch ( Rana) :Từ tinh hoàn phát ra những ống dẫn tinh ( di tích của thận trước ) đi qua thận rồi đổ vào ống Wolff, ống Wolff khi đó được gọi là ống niệu sinh dục. Kiểu cóc tía ( Bombina) Cũng giống như kiểu trên nhưng một trong những ống dẫn tính dịch từ tinh hoàn không xuyên qua thận mà đổ trực tiếp vò ống Wolff. Kiểu có lưỡi đĩa ( Discoglossus ) Cũng giống như kiểu trên nhưng không có mối quan hệ giữa tinh hoàn, ống dẫn tinh đi vào thận. Xuất hiện ông dẫn niệu thứ cấp và ống Wolff. Như vậy đoạn chung giữa ống niệu thứ cấp và ống Wolff ngắn lại. Đoạn ống Wolff dẫn tinh dài . Kiểu cóc mang trứng ( Alystes ): Cũng giống như kiểu cóc lưỡi đĩa song phần chung giữa ống niệu thứ cấp và ống Wolff rất ngắn. Trong kiểu này ông Wolff chủ yếu đóng vai trò dẫn tinh. Ở họ cóc ( Bufonidae ) phía trên tinh hoàn có một cơ quan hình thuỳ gọi là cơ quan Bidder ( hình ) Cơ quan này phát triển thành buồn trứng nếu cắt bỏ đi tinh hoàn ở con đực. Và buồng trứng phát triển cho trứng. Trứng thụ tinh sẽ phát triển thành nòng nọc. Người ta gọi trường hợp cóc đực này là lưỡng tính có hiệu lực. Hiện tượng lưỡng tính ở cóc đực là do hoocmon của tuyến gian bào của tinh hoàn tiết ra đã ức chế sự phát triển của buồng trứng. Bộ phận giao cấu của lưỡng cư không chân. Dây chỉ là một bộ phận do xoang huyệt lồi ra mà thành. Trên bộ phận giao cấu tuy không có rãnh dãn tinh song thực sự nó là một bộ phận giao phối chính thức, cũng như rường hợp bộ phận giao cấu xoang huyệt lộn nên thò ra ngoài ở cá thể đực giống ếch đuôi (Ascaphus ) ở Bắc Mỹ, nhờ đó mà lưỡng cư không chân và ếch đuôi thụ tinh trong. - Tuyến sinh dục cái ( Hình 11 B ) Con cái có hai buồng trứng hình túi dạng hạt. Trên bề mặt có nhiều hạt màu đen trắng. Đó chính là trứng ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Khi chứa đầy trứng chiếm khối lượng gần hết khoang bụng. Hình dạng buồng trứng thay đổi tuỳ loài, từng nhóm lưõng thê. Điển hình như dài và dẹp của ếch giun, ngắn và dẹp ( cá cóc), ngắn và rộng như ngễnh ngoé. Buồng trứng của cá cóc có một khoang, còn ếch gồm nhiều túi có nhiều khoang. Phía trên buồng trứng cũng có thể mỡ mà hình dáng thay đổi theo loài và có cỡ lớn thay đổi theo mùa cũng giống như thể mỡ của tuyến sinh dục ếch đực. Ống dẫn trứng là ống Muller có thành dày, dài và có nhiều khúc rõ ràng. Đầu ống có loa kèn để hứng trứng gần gốc phổi, gần với bao tim và đầu dưới thông với huyệt. Khi chín trứng rơi qua phần nứt của thành tuyến rơi vào xoang cơ thể rồi vào ống dẫn. Nhằm tăng khả năng hút trứng trong điều kiện ếch nhái đẻ nhiều loa của ống Muller ở đa số ếch nhái, còn gắn với màng bao tim. Khi tim đập nhanh, đạp loa kèn rung động, nhờ đó tăng khả năng hút trứng. Thành ống có nhiều tuyến tiết chất nhày để bao trứng. Phần sau ống dẫn trứng phình rộng thành tử cung. Trong mùa sinh dục ống có tuyến tiết chất nhầy để bao trứng. Mỗi tử cung thông riêng vào huỵệt, trừ cóc Buffo có hai tử cung thông chung một lỗ huyệt. - Cấu tạo trứng Đặc điểm trứng ếch: Trứng có nhân, trứng có một lớp tế bào bao phủ màng tế bào noãn, bên ngoài lại được bao phủ bởi màng tế bào biểu bì của buồng trứng. Buồng trứng được cấu tạo như thể gọi là buồng trứng rỗng. Các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết rằng trứng chín sẽ rơi vào xoang bụng. Sự cử động của các tiêm mao của các tế bào ở miệng phễu của ống dẫn trứng đã thu hút trứng chín và vào ống đẫn trứng. Thành ống dẫn trứng có nhiều tuyến tiết chất nhày. Phần cuối ống dẫn trứng mở rộng thành tử cung ở hầu hết các loài có tác dụng giữ trng trước khi đẻ. 4.2. Tập tính sinh sản 4.2.1. Biến đổi của cơ quan sinh sản Vào mùa sinh sản, để bảo tồn nòi giống và đảm bảo khả năng thụ tinh và sinh sản ra các thế hệ con cháu tốt nhất, lưỡng cư trưởng thành sinh dục thường có những biến đổi nhất định. Những biến đổi này nằm trong tập tính hôn phối của chúng. - Các cá thể đực có mắt, các giác quan và bộ não lớn hơn cá thể cái. Đặc biệt, một số cá thể đực (ếch, ngóe...) còn có hai túi kêu lớn thong với xoang miệng có tác dụng gọi con cái. - Vào mùa sinh sản nhiều lưỡng cư có màu sắc rực rỡ như bộ áo cưới. Ví dụ, cá cóc Tam Đảo đực có bụng màu da cam đỏ hơn cá cóc cái, cóc nhà đực có cổ họng màu đỏ gạch, nhái bén nhỏ có đùi trong màu đỏ. Sagiong núi Anpơ( Triturus Cristatus) xuất hiện một nếp gấp da ở lưng. Ở góc ngón tay cái hoặc ở trên ống tay cá thể đực lưỡng cư không đuôi thường có mấu da hóa sừng- chai sinh dục. Màu sắc rực rỡ của bộ áo cưới, hình thù đặc biệt của con đực có thể có tác dụng kích thích con cái đẻ trứng. Chai sinh dục mọc ở gốc ngón tay cái con đực có thể coi như cái mấu giúp cho nó ôm con cái chặt hơn khi ghép đôi. Đặc điểm hình thái khác biệt giữa con đực và con cái cũng có thể là dấu hiệu để lựa chọn đối tượng giao cấu, tránh tình trạng nhầm lẫn. 4.2.2. Tập tính kết đôi Đầu mùa hạ, ngay sau những cơn mưa lớn, vào ban đêm, ta thường nghe thấy tiếng ếch kêu. Đó là tiếng kêu của ếch đực gọi ếch cái. Chúng gặp nhau để giao phối. ếch cái đẻ trứng xuống nước tạo thành những chùm nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Trứng ếch đã được thụ tinh nở ra nòng nọc, nòng nọc phát triển thành ếch. Giao hoan là hành động cuối cùng của chuổi hoạt động tập tính hôn phối. Ở tất ccả các nhóm ếch nhái giao hoan đều giống nhau và được kết thúc bởi sự phóng tinh của con đực, thụ tinh cho trứng. Các loài lưỡng cư khác nhau có biểu hiện tập tính sinh sản khác nhau. Ví dụ lưỡng cư không đuôi, con đực ôm chặt con cái vào nách hay hông. Tiếp đến là con cái đẻ trứng, rồi con đực tưới tinh để thụ tinh cho trứng. Ở cá cóc Tam Đảo chẳng hạn, sau một loạt các hoạt động hôn phối, con đực và cái cuốn đuôi vào nhau, rồi phóng tinh. Hiện tượng ghép đôi có ý nghĩa sinh học quan trọng, giúp cho con cái đẻ trứng bình thường. Đối với lưỡng cư không đuôi, sự giao cấu tạo điều kiện cho sự phóng trứng và tinh trùng đúng lúc, tỉ lệ trứng được thụ tinh cao hơn. Trong mùa sinh dục, phản xạ ghép đôi biểu hiện rất mạnh mẽ, làm chúng rất say, có khi không rời nhau ngay cả khi có vật va chạm vào cơ thể. Nhiều khi gặp một vật tròn to vừa một ôm taycũng có thể gây phản xạ giao cấu ở con đực và dẫn đến hiện tượng ôm nhầm. Ở phần lớn lưỡng cư có đuôi, trước khi giao cấu có biểu hiện tập tính hôn phối. Đó là một chuỗi liên tiếp nhau những cử động tạo thành những tư thế đặc trưng cho từng loài. Ví dụ, loài kì nhông có mào phổ biến ở Châu Âu, tập tính hôn phối gồm những biểu hiện lien tiếp nhau: trèo lên nhau, cọ than vào nhau, sau đó con đực tách rời con cái uốn than và quật quật và phóng ra nhiều túi tinh dịch. Con cái bơi lên phía trên các túi này, rồi dung bờ của lỗ huyệt đã phát triển thành nơi thu các túi tinh dịch đưa vào huyệt. Biểu hiện tập tính hôn phối rất hiếm thấy ở lưỡng cư không đuôi. Tuy nhiên, người ta cũng đã phát hiện ở ếch trèo cây (Dendrobates auratus) Trung Mĩ, trước khi giao cấu, con đực và con cái nhảy nhót hung hăng, con nọ va vào con kia trong khoảng 2-3 giờ như một trận giao đấu. Ở nước ta, loài chẫu xanh ( Rhacophorus nigropalmatus) Cúc Phương có hoạt động hôn phối khá phức tạp, kéo dài khoảng 7 giờ, gồm nhiều động tác liên tiếp ở cả con đực và con cái diễn ra trên ba môi trường: cạn, nước và trên cây. Đầu tiên con đực cà con cái nhảy nhót trên một chiếc ao nhỏ khoảng nửa giờ, rồi từng cặp đực cái ôm nhau bơi lội cùng với những con đực lẻ loi. Tiếp đó, chúng lên bờ, trèo lên cây chuối, các cặp vẫn ôm nhau nhảy từ lá nọ sang lá kia nhiều lần, các con đực lẻ loi cũng nhảy như vậy, rồi dừng lại ở một vị trí nào đó trên cây chuối. Sau đó, các con đực lẻ tiến đến con cái họp thành chum lớn. Ơ đó, con đực dùng chi trước cọ vào sườn con cái, sau một thời gian con cái phóng trứng, các con đực lần lượt phóng tinh trùng. Con cái dùng chi sau đảo trứng và các con đực lần lượt đi hết. 4.2.3. Tập tính chăm sóc trứng và con non Đẻ trứng là một biểu hiện của tập tính sinh sản. Đặc điểm và cấu tạo của trứng, cùng các hoạt động đẻ trứng của lưỡng cư mang nhiều đặc điểm riêng, khác với các động vật khác. Trứng lưỡng cư có độ lớn khác nhau nhiều. Trứng ếch, ngóe, cóc có đường kính 0,8-1,7 mm ( không kể màng nhầy), trứng cá cóc Tam Đảo và ếch trơn có đường kính 3mm. Tuy nhiên, cũng có một số loài trứng lớn 5-6mm, nếu cả màng nhầy thì lớn tới 18-22mm.s Đối với lưỡng cư không đuôi, trứng thường đẻ vào trong nước và gắn với nhau thành đám lớn không đều ( ếch, ngóe, nhái bàu) hoặc gắn với nhau thành khối tròn (nhái bén) hoặc xếp thành dải dài hang mét ( cóc nhà), rời rạc hoặc gắn với nhau thành đám nhỏ trong nước ( cóc tía). Đa số lưỡng cư đẻ trứng trong nước. Ví dụ nhái bám đẻ trứng vào lá cây bờ rào quanh nhà. Trong khi đẻ con vật tiết chất nhầy bao quanh đám trứng và dùng chân sau đánh sủi lên thành khối bọt rồi bỏ đi. Nhái bám cũng làm tổ bọt như vậy trong hốc cây. Khối bọt lúc đầu có màu trắng, sau chuyển sang màu nâu nhạt và rắn lại. khi nở thành nòng nọc, khối bọt hóa lỏng và nòng nọc quẩy khỏi bọt rơi xuống nước. Nhái bén làm tổ ở bờ vực nước để đẻ trứng nòng nọc biến thái ngay trong tổ này. Nhái lá trong khi đẻ trứng ở một lá cây trên mặt nước di chuyển chậm từ ngọn tới cuống lá và cuốn thành cái ống chứa trứng. Nòng nọc nở ra lọt qua lỗ ống rơi xuống nước. Cóc gai mắt đẻ trứng vào đất ẩm, trứng phát triển trực tiếp thành con giống hệt cóc mẹ. Ở lưỡng cư đã có nhiều biểu hiện tập tính chăm sóc trứng và con non phong phú và rất đặc thù. Các loài khác nhau có mức độ chăm sóc trứng khác nhau.Ở ếch trun đẻ 12 trứng làm thành một chum, rồi con mẹ quấn chặt lấy để bảo vệ. Một số loài có hiện tượng canh trứng: cá cóc mù và cá cóc khổng lồ đực luôn ở gần đám trứng đề phòng cá dữ. Nhái bám ( Rhacophorus microtympamun), con cái nằ