Trong thương mại quốc tế, thông thường cần tới 3 hợp đồng vận tải hàng hóa, đó là:
Hợp đồng 1: từ cơ sở người bán (xưởng, kho, bãi, ) đến người chuyên chở quốc tế trong nội địa nước người bán.
Hợp đồng 2: từ người chuyên chở quốc tế tại nước người bán đến một địa điểm quy định tại nước người mua (cảng, sân bay đích )
Hợp đồng 3: từ địa điểm hàng đến (vd: cảng đích ) tại nước người mua đến cơ sở của người mua.
Như vậy, điều căn bản là phải xác định rõ ràng trách nhiệm của người bán kết thúc ở đâu ? Và trách nhiệm của người mua bắt đầu từ đâu ?
Căn cứ chính làm cơ sở phân đoạn trách nhiệm giữa người bán và người mua là: Ai là người chịu trách nhiệm trả cước phí vận tải, mua bảo hiểm, làm thủ tục và trả chi phí thông quan XK, NK, quá cảnh qua nước khác Nếu không có sự phân chia rõ ràng như vậy, thì sẽ rất khó khăn cho người bán và người mua định giá bán và giá mua là như thế nào.
54 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 14623 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh incoterms 2010 và incoterms 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng quan về INCOTERMS
Mục đích của INCOTERMS
Trong thương mại quốc tế, thông thường cần tới 3 hợp đồng vận tải hàng hóa, đó là:
Hợp đồng 1: từ cơ sở người bán (xưởng, kho, bãi,…) đến người chuyên chở quốc tế trong nội địa nước người bán.
Hợp đồng 2: từ người chuyên chở quốc tế tại nước người bán đến một địa điểm quy định tại nước người mua (cảng, sân bay đích…)
Hợp đồng 3: từ địa điểm hàng đến (vd: cảng đích…) tại nước người mua đến cơ sở của người mua.
Như vậy, điều căn bản là phải xác định rõ ràng trách nhiệm của người bán kết thúc ở đâu ? Và trách nhiệm của người mua bắt đầu từ đâu ?
Căn cứ chính làm cơ sở phân đoạn trách nhiệm giữa người bán và người mua là: Ai là người chịu trách nhiệm trả cước phí vận tải, mua bảo hiểm, làm thủ tục và trả chi phí thông quan XK, NK, quá cảnh qua nước khác…Nếu không có sự phân chia rõ ràng như vậy, thì sẽ rất khó khăn cho người bán và người mua định giá bán và giá mua là như thế nào.
Hơn nữa, do thương mại quốc tế thưởng sử dụng ngôn ngữ khác nhau, chịu sự điều tiết về tập quán, luật lệ địa phương khác nhau dẫn đến sự hiểu lầm, tranh chấp kiện tụng giữa các bên tham gia. Để hạn chế những bất đồng và thúc đẩy thương mại quốc tế, Phòng thương mại quốc tế (ICC) đã soạn thảo các “Điều kiện thương mại quốc tế (International Commerce Terms – INCOTERMS)”
INCOTERMS là bộ qui tắc do Phòng Thương mại Quốc tế ( ICC ) phát hành để giải thích các điều kiện về thương mại quốc tế.
Do INCOTERMS hội tụ được tập quán phổ biến trong thương mại quốc tế nên được toàn thế giới công nhận và áp dụng. INCOTERMS quy định những quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong một hoạt động thương mại quốc tế.
Được ban hành lần đầu tiên vào năm 1936, và được sửa đổi bổ sung vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và bây giờ là INCOTERMS 2010. INCOTERMS 2010 là phiên bản mới nhất của INCOTERMS, được ICC xuất bản tháng 9/2010 với 11 quy tắc mới và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.
Như vậy, mục đích chính của INCOTERMS là:
Cung cấp bộ quy tắc nhằm giải thích những Điều kiện Thương mại thông dụng nhất trong Thương mại quốc tế.
Giúp các bên tránh được hoặc hạn chế được đáng kể những rủi ro phát sinh do những khác biệt trong cách giải thích các điều kiện INCOTERMS ở các nước khác nhau. Khi hợp đồng tham chiếu đến INCOTERMS, các bên sẽ xác định được rõ ràng nghĩa vụ tương ứng và hạn chế những rắc rối về mặt pháp lý.
Tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy giao dịch thương mại quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh và tính chất pháp lý tùy ý của INCOTERMS.
Phạm vi điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh của INCOTERMS được giới hạn, bao gồm:
Trong những vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết hợp đồng mua bán lien quan đến việc giao hàng ( với nghĩa là hàng hữu hình, mà không bao gồm hàng “vô hình” ví dụ như các phần mềm máy tính…)
INCOTERMS chỉ giải quyết mối quan hệ giữa người mua và người bán theo hợp đồng mua bán và chỉ điều chỉnh một số khía cạnh cụ thể trong hợp đồng này. Một thương vụ hoàn thành cần liên quan đến nhiều hợp đồng khác nhau: như hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng tài trợ thương mại, trong khi đó INCOTERMS chỉ liên quan đến một hợp đồng đó là hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, khi đã thỏa thuận áp dụng INCOTERMS, thì INCOTERMS cũng được áp dụng cho các hợp đồng có liên quan. Ví dụ: với điều kiện CFR hoặc CIF thì người bán không thể thực hiện nghĩa vụ bằng các phương thức vận tải khác với vận tải bằng đường biển. Hơn nữa, tính phù hợp của bộ chứng từ thanh toán theo L/C phụ thuộc vào chứng từ vận tải quy định trong L/C, nên không thể tùy ý lựa chọn phương thức vận tải khác.
Cho dù INCOTERMS là cực kì quan trọng cho việc thực hiện hợp đồng mua bán, tuy nhiên có rất nhiều vấn đề mà INCOTERMS lại không điều chỉnh, như việc chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc các quyền về tài sản khác, hành vi vi phạm hợp đồng và hậu quả của những vi phạm đó cũng như quyền miễn trách trong một số trường hợp. Những điều như vậy phải được điều chỉnh bằng các quy định cụ thể trong hợp đồng mua bán và theo luật áp dụng.
Về bản chất, INCOTERMS được áp dụng khi mua bán hàng hóa qua biên giới, do đó, nó bao gồm các điều kiện thương mại quốc tế. Nhưng vì INCOTERMS là văn bản quy phạm pháp luật tùy ý, nên đôi khi người ta lại dùng nó cho thương mai nội địa, điều này là không khuyến khích và phải thận trọng khi áp dụng các điều khoản INCOTERMS cho thích hợp.
Trong thực tế, có hai cách hiểu sai lầm phổ biến về INCOTERMS. Thứ nhất, INCOTERMS thường bị hiểu lầm là áp dụng cho hợp đồng vận tải mà không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa. Thứ hai, đôi lúc INCOTERMS bị coi là bộ quy tắc về mọi nghĩa vụ mà các bên muốn đưa vào hợp đồng.
Ngoài ra, thuật ngữ INCOTERMS còn được gọi bằng các thuật ngữ khác đan xen như “Shipment Terms”, “Terms of Delivery” hay “Trade Terms”
Tính chất pháp lý tùy ý của INCOTERMS:
INCOTERMS là văn bản do ICC phát hành, mà ICC là một tổ chức mang tính xã hội (phi chính phủ) chứ không phải là một tổ chức liên chính phủ, do đó, INCOTERMS không mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các hội viên cũng như các bên liên quan. Tính chất pháp lý tùy ý của INCOTERMS thể hiện ở các điểm chính:
Tất cả các phiên bản INCOTERMS đều còn hiệu lực, nghĩa là phiên bản sau không phủ nhận phiên bản trước. Do đó, khi dẫn chiếu INCOTERMS trong hợp đồng mua bán phải nói rõ là áp dụng INCOTERMS nào.
Chỉ khi trong hợp đồng mua bán có dẫn chiếu áp dụng INCOTERMS, thì nó mới trở nên có hiệu lực pháp lý bắt buộc điều chỉnh các bên liên quan.
Các bên có thể thỏa thuận trong các hợp đồng mua bán:
Không thực hiện, hoặc thực hiện khác đi một hoặc một số điều không quy định trong INCOTERMS.
Bổ sung những điều khoản trong hợp đồng mà INCOTERMS không đề cập.
Nếu nội dung INCOTERMS có xung đột với luật quốc gia, thì luật quốc gia vượt lên trên về mặt pháp lý. Điều này hàm ý, phán quyết của tòa án địa phương có thể phủ nhận các điều khoản của INCOTERMS.
Do là văn bản pháp lý tùy ý, nên ICC sẽ được miễn trách khi có sai sót, tổn thất phát sinh trong quá trình áp dụng. Các bên liên quan khi áp dụng INCOTERMS cần phải hiểu thấu đáo nội dung, sử dụng thành thạo kĩ năng nghiệp vụ có liên quan.
Do các mẫu hợp đồng mua bán thường được in sẵn, trong đó có điều khoản áp dụng INCOTERMS, nên để tránh sự hiểu lầm, khi kí hợp đồng mua bán các bên phải đặc biệt chú ý đến điều khoản áp dụng INCOTERMS. Nếu điều khoản INCOTERMS in sẵn không thích hợp (phiên bản cũ), thì phải sửa lại theo ý chí của các bên.
Lịch sử hình thành và phát triển của INCOTERMS:
Bộ Incoterms đầu tiên được ICC ban hành vào năm 1936 dưới tên gọi INCOTERMS 1936. Ðể phù hợp với thực tế thương mại INCOTERMS đã được sửa đổi bổ sung vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và lần gần đây nhất đã cho ra đời bộ INCOTERMS 2010.
INCOTERMS 1980
Gồm 14 điều kiện: Ex Works; Free Carrier; Free on Rail/Free on Truck; Fob Airport; Free alongside Ship; Free on Board; Cost and Freight; Cost, insurance and freight; Freight Carriage paid to; Freight Carriage and insurance paid to; Ex Ship; Ex Quay; Delivered at frontier; Delivered Duty paid.
INCOTERMS 1990
Gồm 13 điều kiện: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF; CPT; CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP.
INCOTERMS 2000
Gồm 13 điều kiện: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF; CPT; CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP và được chia làm 4 nhóm (E, F, C, D)
INCOTERMS 2010
INCOTERMS 2010 là phiên bản thứ 8 sẽ có hiệu lực áp dụng kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. INCOTERMS 2010 sẽ đưa vào áp dụng các thông lệ mới nhất trong thương mại, cập nhật và tổng hợp một số các quy tắc cũ. Hệ thống phân loại mới của INCOTERMS 2010 phân chia quy tắc của 11 thông lệ thương mại thành hai nhóm riêng biệt: (1). Nhóm các quy tắc áp dụng cho tất cả các hình thức vận tải và (2). Nhóm các quy tắc áp dụng cho vận tải đường thủy. Số điều kiện trong INCOTERMS 2010 đã giảm từ 13 xuống 11. Có được điều này là nhờ việc thay thế bốn điều kiện cũ của INCOTERMS 2000 (DAF, DES, DEQ, DDU) bằng hai điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT – Giao hàng tại bến và DAP – Giao tại nơi đến.
Tại sao phải sửa đổi INCOTERMS:
Nhằm tương thích với những thay đổi về môi trường và điều kiện thương mại quốc tế, đặc biệt là:
Trong bối cảnh ngoại thương phát triển ngày càng sôi động và phức tạp dẫn đến nhiều khả năng hiểu lầm và tranh chấp, khi hợp đồng không được soạn thảo chặt chẽ.
Sự phát triển các khu ngoại quan, miễn trừ thủ tục hải quan, việc gia tăng sử dụng các phương tiện thông tin điện tử trong giao dịch thương mai cùng những thay đổi tập quán vận tải.
Do đó, cho đến nay INCOTERMS đã được tu chỉnh 7 lần vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và 2010. Điểm đặc biệt cần lưu ý là, INCOTERMS được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, lần sau hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn hơn, nhưng không vì thế mà phủ nhận tính hiệu lực của các lần trước đó. Điều này có nghĩa là, tất cả các INCOTERMS do ICC phát hành ( bao gồm 8 INCOTERMS) đều còn nguyên hiệu lực thi hành, do đó trong hợp đồng thương mại, các bên tham gia có quyền chọn bất kì INCOTERMS nào, và phải dẫn chiếu rõ ràng INCOTERMS mà các bên muốn sử dụng. Ví dụ: các bên muốn áp dụng INCOTERMS 2010, thì trong hợp đồng mua bán phải có dẫn chiếu: “The contract is governed by INCOTERMS 2010”.
Một số lưu ý khi sử dụng INCOTERMS:
Thực tiễn hoạt động thương mai quốc tế và Phòng thương mại quốc tế có đưa ra các khuyến cáo sau đây cho các bên khi sử dụng INCOTERMS:
INCOTERMS chỉ nên áp dụng đối với hợp đồng ngoại thương mà không áp dụng cho hợp đồng nội thương.
INCOTERMS chỉ áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa dạng vật chất (hữu hình), không áp dụng cho hàng hóa phi vật chất (vô hình: vd công nghệ, phần mềm máy tính…)
Các điều kiện INCOTERMS chỉ đề cập những nghĩa vụ chủ yếu có liên quan hàng hóa như: giao nhận hàng, nghĩa vụ về vận tải hàng hóa, về chuyển và nhận các chứng từ, thủ tục xuất nhập khẩu, chuyển rủi ro về hàng hóa… Nên INCOTERMS không phải là hợp đồng vận tải, và cũng không thể thay thế hợp đồng ngoại thương (Hợp đồng ngoại thương còn phải bao gồm các điều kiện như: giá cả hàng hóa, bao bì, chất lượng, số lượng, điều kiện thanh toán…)
Không nên sử dụng các tập quán, thói quen thương mại hình thành tự phát trong hoạt động buôn bán có tính chất địa phương hay khu vực, mà nên sử dụng thống nhất INCOTERMS. Trường hợp, nếu các bên muốn áp dụng khác đi so với quy định của INCOTERMS, thì phải quy định rõ ràng những điểm khác đó trong hợp đồng ngoại thương, ví dụ như về chi phí bốc, dỡ, san, xếp hàng, thuê tàu, địa điểm chuyển rủi ro.
Xét từ lợi ích kinh tế vĩ mô và vi mô (tiết kiệm hoặc tăng thu ngoại tệ), khi tham gia xuất nhập khẩu, chúng ta nên giành được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm hàng hóa. Hiện nay, ở Việt Nam, khoảng trên 80% các thương vụ, doanh nghiệp khi xuất khẩu lựa chọn điều kiện FOB, còn nhập khẩu thì lựa chọn điều kiện CFR hoặc CIF là điều không có lợi. Các doanh nghiệp thường cho rằng: xuất khẩu theo FOB mau chuyển rủi ro sang cho người mua, nhập khẩu hàng hóa theo CFR hoặc CIF an toàn hơn vì người bán nước ngoài phải chịu rủi ro đến tận cảng nhập khẩu. Nhưng theo quy tắc của INCOTERMS 2000, thì nơi chuyển rủi ro của cả 3 điều kiện FOB, CFR và CIP đều là lan can tàu tại cảng bốc hàng.
Vì những lí do bất lợi do không giành được quyền thuê phương tiện vận tải khi lựa chọn điều kiện thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi khi xuất khẩu nên chọn nhóm điều kiện C còn khi nhập khẩu nên chọn nhóm điều kiện F.
Một số điểm khác nhau cơ bản của incoterms 2000 và incoterms 2010:
Số lượng điều kiện:
Hai điều kiện mới (DAT và DAP) thay thế các điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU:
Số điều kiện trong Incoterms 2010 đã giảm từ 13 xuống 11. Có được điều này là nhờ việc thay thế bốn điều kiện cũ của Incoterms 2000 (DAF, DES, DEQ, DDU) bằng hai điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT – Giao hàng tại bến và DAP – Giao tại nơi đến.
INCOTERMS 2000
INCOTERMS 2010
EXW EX Works
FCA Free Carrier
FAS Free Alongside ship
FOB Free On Board
CFR Cost And Freight
CIF Cost Insurance and freight
CPT Carriage Paid To
CIP Carriage, Insurance paid to
DAF Delivered At Frontier
DES Delivered Ex Ship
DEQ Delivered Ex Quay
DDU Delivered Duty Unpaid
DDP Delivered Duty Paid
EXW EX Works
FCA Free Carrier
FAS Free Alongside ship
FOB Free On Board (On Board The Vessel)
CFR Cost And Freight
CIF Cost Insurance and freight
CPT Carriage Paid To
CIP Carriage, Insurance paid to
DAT Delivered At terminal
DAP Delivered At Place
DDP Delivered Duty Paid
Cách phân loại:
Incoterms 2000 được chia thành 4 nhóm (E, F, C, D) trong khi incoterms 2010 được chia thành 2 nhóm:
Nhóm thứ nhất gồm bảy điều kiện có thể sử dụng mà không phụ thuộc vào phương thức vận tải lựa chọn và cũng không phụ thuộc vào việc sử dụng một hay nhiều phương thức vận tải. Nhóm này gồm các điều kiện EXW, FCA, CPT, CIP, DAT, DAP, DDP.
Nhóm thứ hai gồm bốn điều kiện FAS, FOB, CFR và CIF. Trong nhóm này, địa điểm giao hàng và nơi hàng hóa được chở tới người mua đều là cảng biển, vì thế, chúng được xếp vào nhóm các điều kiện “đường biển và đường thủy nội địa”.
3. Thuật ngữ:
Ở ba điều kiện FOB, CFR và CIF, mọi cách đề cập tới lan can tàu như một điểm giao hàng đã bị loại bỏ.
Thay vào đó, hàng hóa xem như đã được giao khi chúng đã được “xếp lên tàu”. Điều này phản ánh sát hơn thực tiễn thương mại hiện đại và xóa đi hình ảnh đã khá lỗi thời về việc rủi ro di chuyển qua một ranh giới tưởng tượng.
4. Phạm vi áp dụng:
Incoterms 2000 thường được sử dụng trong các hợp đồng mua bán quốc tế, khi có sự di chuyển của hàng hóa qua biên giới quốc gia. Tuy vậy, tại nhiều nơi trên thế giới, sự phát triển của các khối thương mại, như Liên minh châu Âu đã khiến các thủ tục tại biên giới giữa các quốc gia không còn quan trọng nữa. Do đó, tiêu đề phụ của Incoterms 2010 đã chính thức khẳng định chúng có thể được sử dụng cho cả các hợp đồng mua bán quốc tế và nội địa.
5. Trao đổi thông tin bằng điện tử:
Incoterms 2000 đã chỉ rõ những chứng từ có thể được thay thế bằng thông điệp dữ liệu điện tử. Tuy vậy, giờ đây Incoterms 2010 cho phép các trao đổi thông tin bằng điện tử có hiệu lực tương đương với việc trao đổi thông tin bằng giấy, miễn là được các bên đồng ý hoặc theo tập quán. Cách quy định này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các giao dịch điện tử mới trong suốt thời gian Incoterms 2010 có hiệu lực.
6. Bảo hiểm:
Incoterms 2010 là phiên bản điều kiện thương mại đầu tiên kể từ khi Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa được sửa đổi và tính đến những thay đổi của các điều kiện này. Incoterms 2010 đưa ra nghĩa vụ về thông tin liên quan tới bảo hiểm trong các quy định về hợp đồng vận tải và bảo hiểm. Những điều khoản này được chuyển từ các mục “những nghĩa vụ khác” trong Incoterms 2000 vốn được quy định chung chung hơn. Ngôn từ liên quan tới bảo hiểm của incoterms 2010 cũng đã được hiệu chỉnh nhằm làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này.
7. Thủ tục an ninh và các thông tin cần thiết để làm thủ tục:
Hiện nay, mối quan tâm về an ninh trong quá trình vận tải hàng hóa ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải có bằng chứng xác nhận hàng hóa không gây nguy hiểm cho con người hoặc tài sản vì bất kỳ lí do gì trừ bản chất tự nhiên của hàng hóa. Do đó, Incoterms 2010 đã phân chia nghĩa vụ giữa người mua và người bán về việc tiếp nhận sự hỗ trợ để làm thủ tục an ninh, như là thông tin vể quy trình trông nom, bảo quản hàng hóa.
8. Bán hàng theo chuỗi:
Hàng nguyên liệu đồng nhất, khác với hàng hóa chế biến, thường được bán ra nhiều lần trong quá trình vận chuyển theo một “chuỗi”. Khi điều này diễn ra, người bán ở giữa chuỗi không phải là người “gửi” (ship) hàng vì chúng đã được gửi bởi người bán đầu tiên trong chuỗi, do đó, thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người mua không phải bằng việc gửi hàng mà bằng việc “mua” hàng hóa đã được gửi. Nhằm làm rõ vấn đề này, Incoterms 2010 đưa thêm nghĩa vụ “mua hàng đã gửi” như một phương án thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng trong các quy tắc Incoterms thích hợp.
Incoterms 2000 và sự khác biệt của incoterms 2010.
EXW (Ex works – giao tại xưởng) .
Điều kiện EXW (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Ex Works" dịch ra tiếng Việt là "Giao tại xưởng" có nghĩa là người bán giao hàng khi đặt hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua tại cơ sở của người bán hoặc tại một địa điểm quy định (ví dụ xưởng, nhà máy, kho tàng, v.v...), hàng hoá chưa được làm thủ tục thông quan xuất khẩu và chưa được bốc lên phương tiện tiếp nhận. Điều kiện này, thể hiện nghĩa vụ của người bán ở phạm vi tối thiểu, và người mua phải chịu mọi phí tổn và rủi ro từ khi nhận hàng tại cơ sở của người bán.Tuy nhiên nếu các bên muốn người bán chịu trách nhiệm bốc hàng lên phương tiện chuyên chở tại điểm đi và chịu rủi ro và các phí tổn về việc bốc hàng đó, thì điều này phải được quy định rõ ràng bằng cách bổ sung thêm từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua bán. Không nên sử dụng điều kiện này khi người mua không thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm các thủ tục xuất khẩu. Trong trường hợp như vậy, nên sử dụng điều kiện FCA, với điều kiện người bán đồng ý sẽ bốc hàng và chịu chi phí và rủi ro về việc bốc hàng đó.
Tổng quan:rủi ro về hàng hóa sẽ được chuyển từ người bán sang người mua kể từ khi người bán giao hàng cho người mua tại xưởng của mình
Nghĩa vụ chính của người bán:
chuẩn bị hàng hóa theo đúng hợp đồng.kiểm tra,bao bì,kí mã hiệu
Cung cấp hàng phù hợp với hợp đồng: Người bán phải cung cấp hàng hoá và hoá đơn thương mại, hoặc thông điệp điện tử tương đương
Đặt hang tại nơi quy định,giao hàng chưa bốc lên phương tiện vận chuyển của người bán
Không phải lấy giấp phép thông quan xuất khẩu,nhưng nếu người mua yêu cầu,với chi phí và rủi ro thuộc về người mua,người bán phải trợ giúp người mua lấy giấy phép xuất khẩu và làm thủ tục thong quan xuất khẩu.
Phải chịu mọi rủi ro,chi phí về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá cho đến thời điểm hàng đã được giao.
Người bán phải thông báo đầy đủ cho người mua về thời gian và địa điểm mà hàng hoá sẽđược đặt dưới quyền định đoạt của người mua.
Phải cung cấp những thông tin cần thiết cho người mua để mau bảo hiểm hang ngay khi được yêu cầu.
Nghĩa vụ chính của người mua:
Phải trả tiền hàng như quy định trong hợp đồng mua bán.
Phải tự chịu rủi ro và chi phí để lấy được giấy phép xuất khẩu và nhập khẩu hoặc sự cho phép chính thức khác và thực hiện, nếu có qui định, mọi thủ tục hải quan đối với việc xuất khẩu hàng hoá.
Kí hợp đồng vận tải,trả cước để chuyên chở hàng hóa
Nhận h