Khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á xảy ra vào giữa năm 1997 đã gây tác hại
nghiêm trọng tới nền kinh tế của một loạt nước trong khu vực vào những năm cuối
cùng của thế kỷ XX. Phạm vi ảnh hưởng và mức độ thiệt hại của cuộc khủng hoảng
này không kém gì so với một cuộc chiến tranh.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Thái Lan, sau đó lan sang các nước trong Đông
Nam Á, sang Đông Bắc Á và ảnh hưởng đến hầu hết các khu vực khác trên thế giới.
Cuộc khủng hoảng khởi đầu từ lĩnh vực tài chính – tiền tệ, tiếp đến lan sang toàn bộ
nền kinh tế và ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Xem xét cuộc
khủng hoảng có thể rút ra nhiều bài học bổ ích đối với các quốc gia, đặc biệt là với các
quốc gia Đông Nam Á. Đó là những bài học về tính phức tạp, tính phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế về những mặt trái của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện
nay. Cuộc khủng hoảng còn khẳng định vai trò ngày càng cao của Nhà Nước và Chính
Phủ trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trước thực tế của một thế
giới đa dạng và đầy biến động.
Hai câu hỏi chính mà những nhà làm chính sách ngày nay phải đối mặt là:
1. Làm thế nào để giảm được rủi ro của sự bất ổn tài chính toàn cầu?
2. Làm thế nào để đối phó với nó khi nó xảy ra?
Bài viết này mở đầu bằng việc nêu ra các khuôn mẫu lý thuyết về thông tin bất
cân xứng nguyên nhân gây ra sự bất ổn tài chính toàn cầu, sau đó từ vấn đề thông tin
bất cân xứng đã dẫn đến các vấn đề về rủi ro đạo đức.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3139 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự bất ổn tài chính toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
Môn: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
TIỂU LUẬN:
SỰ BẤT ỔN
TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
GVHD: TS. Bùi Thị Mai Hoài
SVTH : Ngô Lê Thạnh Phong
Lớp : K20 - Đ12
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 04/2011
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang ii
MỤC LỤC
Đề mục Trang
I. Bất ổn tài chính là gì? ........................................................................................... 2
1. Khái niệm hệ thống tài chính ........................................................................... 2
2. Thông tin bất cân xứng .................................................................................... 3
II. Tại sao xảy ra sự bất ổn tài chính? ..................................................................... 5
1. Sự suy giảm trong BCĐKT của khu vực tài chính............................................ 6
2. Sự gia tăng lãi suất ........................................................................................... 7
3. Sự gia tăng tình trạng không chắc chắn ............................................................ 7
4. Sự suy giảm trong BCĐKT của khu vực phi tài chính do thay đổi giá ............. 8
III. Bất ổn tài chính ở Mexico và Đông Á .............................................................. 10
1. Trước các cuộc khủng hoảng, thâm hụt tài chính không phải là một vấn đề
nghiêm trọng đối với các quốc gia bị khủng hoảng ........................................ 10
2. Trước khủng hoảng, lạm phát ở các quốc gia chịu ảnh hưởng ........................ 11
3. Theo kinh nghiệm của các quốc gia bị khủng hoảng về đánh giá đúng tỷ giá hối
đoái thực là khá khác nhau giữa các nước ...................................................... 11
4. Hầu hết các nước chịu khủng hoảng đã có những khoản thâm hụt lớn trong cán
cân tài khoản vãng lai .................................................................................... 11
5. Trước khủng hoảng, dòng vốn đổ vào các nước là rất cao và sau đó rút ra rất
nhanh khi khủng hoảng chớm bắt đầu ............................................................ 12
6. Sự bùng nổ tín dụng, trong đó cho vay của ngân hàng tăng với một tỷ lệ tăng rất
nhanh, xuất hiện ở tất cả các nước trước khủng hoảng ................................... 12
7. BCĐKT của các ngân hàng xấu đi trước khủng hoảng ở tất cả các quốc gia .. 12
8. Tính thanh khoản tại các nước chịu khủng hoảng đã yếu đi rất nhiều trước cuộc
khủng hoảng .................................................................................................. 13
IV. Những vấn đề về chính sách ............................................................................ 16
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á xảy ra vào giữa năm 1997 đã gây tác hại
nghiêm trọng tới nền kinh tế của một loạt nước trong khu vực vào những năm cuối
cùng của thế kỷ XX. Phạm vi ảnh hưởng và mức độ thiệt hại của cuộc khủng hoảng
này không kém gì so với một cuộc chiến tranh.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Thái Lan, sau đó lan sang các nước trong Đông
Nam Á, sang Đông Bắc Á và ảnh hưởng đến hầu hết các khu vực khác trên thế giới.
Cuộc khủng hoảng khởi đầu từ lĩnh vực tài chính – tiền tệ, tiếp đến lan sang toàn bộ
nền kinh tế và ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Xem xét cuộc
khủng hoảng có thể rút ra nhiều bài học bổ ích đối với các quốc gia, đặc biệt là với các
quốc gia Đông Nam Á. Đó là những bài học về tính phức tạp, tính phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế về những mặt trái của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện
nay. Cuộc khủng hoảng còn khẳng định vai trò ngày càng cao của Nhà Nước và Chính
Phủ trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trước thực tế của một thế
giới đa dạng và đầy biến động.
Hai câu hỏi chính mà những nhà làm chính sách ngày nay phải đối mặt là:
1. Làm thế nào để giảm được rủi ro của sự bất ổn tài chính toàn cầu?
2. Làm thế nào để đối phó với nó khi nó xảy ra?
Bài viết này mở đầu bằng việc nêu ra các khuôn mẫu lý thuyết về thông tin bất
cân xứng nguyên nhân gây ra sự bất ổn tài chính toàn cầu, sau đó từ vấn đề thông tin
bất cân xứng đã dẫn đến các vấn đề về rủi ro đạo đức.
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 2
Chính thông tin bất cân xứng là nguyên nhân sâu xa của sự bất ổn này nên các
nguyên nhân làm gia tăng thông tin bất cân xứng chính là làm gia tăng sự bất ổn tài
chính toàn cầu.
Bố cục bài này chia ra làm ba phần:
Phần đầu: Định nghĩa bất ổn tài chính là gì?
Phần thứ hai: Tại sao bất ổn tài chính lại xảy ra? Và những thiệt hại của
nó đến nền kinh tế.
Phần thứ ba: Mô tả những gì đã xảy ra ở Mexico và các nước Đông Á
trong những năm gần đây.
Phần cuối: Đưa ra những vấn đề chính sách quan trọng để khắc phục tình
trạng khủng hoảng tài chính.
I. Bất ổn tài chính là gì?
1. Khái niệm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là một hệ thống thống nhất mà tại đó các hoạt động chuyển
giao nguồn lực tài chính giữa các chủ thể diễn ra rất đa dạng, phong phú, đan xen lẫn
nhau, tác động lẫn nhau. Cơ cấu hệ thống tài chính gồm:
Thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường vốn).
Các chủ thể tài chính – tham gia và kiến tạo thị trường.
Cơ sở hạ tầng tài chính của hệ thống tài chính.
Trong đó, thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn,
diễn ra dưới hình thức vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm
chuyển dịch từ nơi cung cấp vốn đến nơi có nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh tế.
Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là tạo ra kênh chuyển tải vốn từ người
thừa vốn đến người cần vốn. Khi hệ thống tài chính vận hành có hiệu quả, nó góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gia tăng phúc lợi xã hội. Qua hệ thống tài chính, những
chủ thể thừa vốn có nhiều cơ hội để đầu tư và gia tăng khả năng sinh lời của đồng vốn;
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 3
còn những chủ thể thiếu vốn có nhiều cơ hội tiếp cận các nguồn vốn để thoả mãn tối đa
nhu cầu phát triển. Ngoài ra hệ thống tài chính còn cung cấp các dịch vụ tài chính như:
chia sẻ rủi ro, tính lỏng và thông tin các giao dịch tài chính.
Nếu hệ thống tài chính không thực hiện tốt vai trò này thì nền kinh tế sẽ hoạt
động thiếu hiệu quả và tốc độ tăng trưởng sẽ bị kìm hãm. Tuy nhiên, chức năng này
hàm chứa một điều rằng các nhà đầu tư luôn có sự đánh giá nhiều hay ít hơn xung
quanh giá trị thực của nó. Vì thế, hệ thống tài chính luôn phải đối mặt với vấn đề thông
tin bất cân xứng mà tại đó luôn có một bên biết nhiều thông tin hơn bên còn lại trong
cùng một hợp đồng tài chính.
2. Thông tin bất cân xứng
Vấn đề thông tin bất cân xứng được đề cập trong bài viết này gồm: Vấn đề quả
chanh (lemons problem), sự lựa chọn nghịch (adverse selection), rủi ro đạo đức (moral
hazard) và người đi xe trốn vé (free rider problems). Từ những vấn đề này, chúng ta sẽ
liên hệ đến vấn đề thông tin bất cân xứng của thị trường tài chính.
Vấn đề quả chanh và sự lựa chọn nghịch
Xảy ra trước khi giao dịch kinh tế diễn ra, khi những người có rủi ro cao lại là
người tích cực nhất trong việc tìm kiếm các khoản vay. Ví dụ: những người chấp nhận
rủi ro lớn thường háo hức thực hiện khoản vay với lãi suất cao bởi vì họ ít lo lắng về
việc hoàn trả khoản vay. Ngược lại, người cho vay lại lo lắng rằng người đi vay sẽ tạo
ra một kết cục không mong muốn và do đó không chọn người sẵn sàng trả lãi suất cao
vì họ không có đủ thông tin về người đi vay hoặc không cho vay đối với cả những
người có rủi ro thấp.
Kết quả của lựa chọn nghịch là dẫn đến “vấn đề quả chanh”. Trong phân tích
của Akerlof (1970) về thị trường xe hơi cũ cho thấy người mua xe hơi đã qua sử dụng
muốn mua xe hơi với giá thấp hơn vì họ không biết đầy đủ thông tin về chất lượng
nhưng họ lại sợ rằng xe hơi với mức giá thấp có thể là những xe có chất lượng thấp. Do
đó, có thể họ chọn xe hơi có giá trung bình. Quay lại thị trường vốn, để giải quyết vấn
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 4
đề thông tin bất cân xứng, người cho vay cố gắng sàng lọc ra những người tốt nhất
trong số những người có rủi ro tín dụng thấp nhất. Nhưng quy trình này khó tránh khỏi
vấn đề bất hoàn hảo và do đó họ sẽ giảm số lượng cho vay khác mà đáng lý họ có thể
thực hiện.
Rủi ro đạo đức
Rủi ro sau khi cuộc giao dịch đã diễn ra. Nó phát sinh bởi vì người đi vay có
động cơ để đầu tư vào những dự án có rủi ro cao và điều này tốt cho người đi vay nếu
dự án thành công, nhưng người cho vay lại gánh chịu sự mất mát nếu dự án thất bại.
Người đi vay cũng có những động cơ để sử dụng sai quỹ này cho những mục đích cá
nhân để trốn tránh hoặc làm việc không chăm chỉ, và dự định đầu tư vào những dự án
phi lợi nhuận chỉ nhằm mục đích gia tăng quyền lực hay sự ảnh hưởng của cá nhân.
Do đó, người cho vay bị phụ thuộc vào động cơ của người đi vay. Để giải quyết
vấn đề này, người cho vay thường áp đặt những ràng buộc đối với người đi vay để
giảm thiểu rủi ro của người cho vay. Tuy nhiên, những ràng buộc này thì khó để thực
thi, kiểm soát, và khó tránh khỏi những vấn đề do sự giới hạn về khả năng của họ. Mâu
thuẫn tiềm tàng về lợi ích của người cho vay và người đi vay phát sinh từ những rủi ro
về mặt đạo đức một lần nữa ngụ ý rằng nhiều người cho vay sẽ cho vay ít hơn những gì
họ có thể, dẫn đến việc cho vay và việc đầu tư của họ sẽ không đạt được hiệu quả tối
ưu.
Vấn đề người đi xe trốn vé
Đó là người được hưởng thụ lợi ích trong khi người khác lại phải chi trả. Vấn đề
này lý giải một phần về đầu tư “bầy đàn” trên thị trường chứng khoán, một nhà đầu tư
muốn chọn được một cổ phiếu tốt nhằm thu được lợi nhuận cao thì người này buộc
phải bỏ ra một khoản chi phí để có được thông tin đó. Những nhà đầu tư khác (người
“đi xe trốn vé”) không phải trả tiền để mua thông tin đó, họ chỉ đơn giản là bắt chước
người đó. Kết quả là họ thu được lợi nhuận mà không phải mất khoản chi phí nào trong
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 5
khi người đó lại phải nhận một khoản lợi ít hơn. Điều đó làm cho động lực để sàng lọc,
nguồn lực điều khiển và tập trung sẽ bị giảm ít hơn mức cần thiết.
Trong hơn 20 năm qua, nhiều tài liệu nghiên cứu giải thích về cấu trúc thị
trường tài chính nhằm hạn chế vấn đề thông tin bất cân xứng. Từ góc nhìn này, cơ sở
cho sự tồn tại các định chế tài chính trung gian đó là nó phải có khả năng và động lực
kinh tế để xác định vấn đề thông tin bất cân xứng. Ví dụ: ngân hàng luôn có khả năng
thu thập thông tin tại thời điểm cho vay, khả năng này chỉ được gia tăng khi ngân hàng
cam kết về mối quan hệ lâu dài với khách hàng và trong hợp đồng tín dụng. Ngoài ra,
ngân hàng còn có khả năng trong việc xem xét, kiểm tra số dư tài khoản của người đi
vay nhằm kiểm soát hành vi của người đi vay. Ngân hàng cũng có những thuận lợi
trong việc giảm rủi ro về mặt đạo đức do nó có thể thực thi với chi phí giám sát thấp
hơn các cá nhân riêng rẽ bằng cách đe dọa cắt giảm nguồn tài trợ trong tương lai để cải
thiện hành vi của người đi vay.
Từ những vấn đề về thông tin dẫn đến định nghĩa về sự bất ổn tài chính
Bất ổn tài chính: “Bất ổn tài chính phát sinh khi có những chấn động mạnh tác động
đến sự can thiệp của hệ thống tài chính bằng những dòng thông tin, làm cho hệ thống
tài chính không thể thực hiện được vai trò của mình là một kênh quỹ phân phối vốn
đến những cơ hội đầu tư”. Vì vậy nếu bất ổn tài chính đủ khốc liệt, nó có thể dẫn đến
phá vỡ hoàn toàn chức năng của thị trường tài chính và trong trường hợp này được gọi
là khủng hoảng tài chính.
II. Tại sao xảy ra sự bất ổn tài chính?
Như chúng ta đã biết, các trung gian tài chính đặc biệt là các ngân hàng thương
mại có vai trò rất quan trọng trong thị trường tài chính. Nếu có sự suy giảm trong hoạt
động và khả năng tạo ra các khoản vay của các trung gian tài chính sẽ tác động một
cách trực tiếp đến sự suy giảm trong đầu tư và toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Khi
có những chấn động đến hệ thống tài chính, sẽ làm gia tăng lựa chọn nghịch và rủi ro
đạo đức, khi đó các khoản vay sẽ trở nên xấu đi.
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 6
Bốn yếu tố có thể làm gia tăng tình trạng thông tin bất cân xứng và do đó dẫn
đến bất ổn tài chính:
1. Sự suy giảm trong bảng cân đối kế toán (BCĐKT) của khu vực tài chính.
2. Sự gia tăng lãi suất.
3. Sự gia tăng tình trạng không chắc chắn.
4. Sự suy giảm trong BCĐKT của khu vực phi tài chính do thay đổi giá của
tài sản.
1. Sự suy giảm trong BCĐKT của khu vực tài chính
Nếu BCĐKT của các ngân hàng (và các trung gian tài chính có tạo các khoản
vay) có sự suy giảm sẽ dẫn đến sụt giảm đáng kể trong nguồn vốn của họ. Lúc này họ
sẽ có 2 lựa chọn:
+ Cắt giảm các khoản cho vay
+ Cố gắng để tăng vốn mới
Theo kinh nghiệm của các ngân hàng, khi BCĐKT suy giảm thì rất khó cho họ
trong việc tăng vốn mới với chi phí hợp lý. Do đó, thông thường các ngân hàng sẽ chọn
phương pháp cắt giảm các khoản cho vay. Và chính điều này làm cho nền kinh tế phát
triển chậm lại.
Nếu sự suy giảm trong BCĐKT là đủ nghiêm trọng, thậm chí nó có thể dẫn đến
những cơn hoảng loạn ngân hàng và khả năng dẫn đến sự thất bại của hàng loạt các tổ
chức ngân hàng là rất cao. Quả thực, nếu như không có sự can thiệp của chính phủ, một
số rủi ro từ sự thất bại của ngân hàng này sẽ lây lan đến những ngân hàng khác, và
thậm chí gây ra sự thất bại của cả những ngân hàng tốt. Nguồn gốc lây lan này một lần
nữa lại do tình trạng thông tin bất cân xứng.
Việc cho vay bị thu hẹp cùng với sự thu hẹp lớn hơn nữa của những khoản tiền
gửi đã làm cho các ngân hàng khác cũng bị thua lỗ. Vì vậy, sự thu hẹp trong những
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 7
khoản hoạt động của các ngân hàng, kéo theo đầu tư giảm, hậu quả là nền kinh tế bị trì
trệ.
Ví dụ: Trong sự hoang mang, những người gửi tiền lo sợ sự an toàn tiền gửi của mình
và không biết chất lượng danh mục các khoản cho vay của ngân hàng, nên họ sẽ kéo
nhau đến rút tiền. Điều này gây ra sự co thắt trong các khoản cho vay và sau đó có thể
dẫn đến sự thất bại của ngân hàng và đồng thời cũng gây nên tổn thất lây lan đến các
ngân hàng và các trung gian tài chính khác. Kết quả là một sự suy giảm lớn trong cho
vay để đầu tư sản xuất và làm cho nền kinh tế co cụm thêm.
2. Sư ̣gia tăng lãi suất
Lãi suất là giá cả mà người đi vay phải trả cho việc sử dụng vốn của người cho
vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất được xem là loại giá cơ bản của thị
trường tài chính và có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động kinh tế - tài chính.
Lãi suất cao sẽ càng làm cho sự lựa chọn nghịch nhiều hơn , có nghĩa là, lãi suất
cao làm cho người cho vay có khả năng se ̃cho vay với rủi ro cao hơn . Như vâỵ , lãi
suất tăng có thể là môṭ yếu tố làm gia tăng sư ̣bất ổn tài chính , bởi vì những người cho
vay nhâṇ ra rằng laĩ suất cao đồng nghiã với chất lươṇg các khoản vay g iảm, và có khả
năng tác đôṇg ngươc̣ laị đối với viêc̣ kinh doanh của những trung gian tài chính và giới
hạn số lượng các khoản cho vay mà họ tạo ra.
Tăng laĩ suất cũng có thể có những tác đôṇg tiêu cưc̣ đến BCĐKT của ngân
hàng. Sự gia tăng lãi suất là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự giảm giá trị tài sản thuần
và làm tăng giá trị của các khoản nợ phải trả.
3. Sự gia tăng tình trạng không chắc chắn
Khi có sự gia tăng đáng kể tình trạng không chắc chắn trên thị trường tài chính
khiến người cho vay rất khó nhận diện rủi ro tín dụng. Sự giảm sút trong khả năng cho
vay để giải quyết các vấn đề về lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức làm cho họ chưa sẵn
sàng để cho vay, dẫn đến một sự suy giảm trong cho vay, đầu tư và hoạt động kinh tế.
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 8
Sự gia tăng tình trạng không chắc chắn này có thể xuất phát từ sự thất bại của tổ
chức tài chính hoặc phi tài chính lớn, hoặc từ một cuộc suy thoái, hoặc từ một sự không
chắc chắn về chính sách trong tương lai của chính phủ.
4. Sự suy giảm trong BCĐKT của khu vực phi tài chính do thay đổi giá của
tài sản
Tình trạng của BCĐKT của các công ty phi tài chính là yếu tố quan trọng nhất
đối với mức độ nghiêm trọng của vấn đề thông tin mất cân xứng trong hệ thống tài
chính. Nếu có sự suy giảm trong bảng cân đối kế toán của người đi vay thì sẽ làm cho
lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trở nên nghiêm trọng hơn, và do đó tạo sự bất ổn
trong thị trường tài chính.
Ví dụ: Các trung gian tài chính khi cho vay thường yêu cầu thế chấp tài sản, nó như là
cách để giảm bớt vấn đề thông tin bất cân xứng. Tài sản thế chấp làm giảm hậu quả của
vấn lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức vì nếu như người đi vay không có khả năng trả
được nợ thì họ cũng có thể bán những tài sản thế chấp này để giảm thiểu rủi ro cho việc
cho vay nợ của họ. Nhưng nếu giá tài sản thế chấp trên thị trường giảm thì vấn đề
thông tin bất cân xứng sẽ bất ngờ trút lên đầu họ.
Những nhân tố ảnh hưởng đến BCĐKT của người đi vay
a) Giá trị thuần
Có thể đóng vai trò như một tài sản thế chấp. Nếu một doanh nghiệp có giá trị
thuần cao, những người cho vay sẽ thu được nhiều tiền hơn để giảm bớt các khoản lỗ
từ vốn cho vay. Giá trị thuần cao cũng trực tiếp làm giảm nhẹ việc tạo ra các rủi ro đạo
đức của những người đi vay.
Tầm quan trọng của tài sản thuần giải thích tại sao sự sụp đổ của thị trường
chứng khoán có thể là nguyên nhân của bất ổn tài chính. Một sự suy giảm mạnh trong
trị trường chứng khoán làm giảm giá trị thị trường của giá trị thuần của công ty, và vì
thế có thể làm tăng lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính
Giảng viên: TS. Bùi Thị Mai Hoài Sự bất ổn tài chính toàn cầu
Ngô Lê Thạnh Phong – K20 Đêm12 Trang 9
(Greenwald and Stiglitz, 1998; Bernanke and Gertler,1989; Calomiris and Hubbard,
1990).
b) Tăng lãi suất
Không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề lựa chọn nghịch như mô tả ở trên, mà
nó còn thúc đẩy bất ổn tài chính thông qua BCĐKT của các công ty và hộ cá thể. Sự
tăng lên lãi suất làm tăng lên các khoản trả lãi của người đi vay, làm giảm tiền và do đó
là nguyên nhân làm suy giảm trên BCĐKT của những người đi vay. Và kết quả là làm
tăng lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.
Một lần nữa giải thích vì sao sự tăng lên của lãi suất có thể là một nhân tố quan
trọng dẫn đến bất ổn tài chính.
c) Sự thay đổi tỷ lệ lạm phát không như dự kiến
Cũng có thể ảnh hưởng đến BCĐKT của người đi vay. Đối với các nước có nền
kinh tế lạm phát cao trong thời gian dài, các hợp đồng tín dụng dài hạn đều cố định tiền
lãi phải trả theo lãi suất theo giai đoạn danh nghĩa trong thời gian dài. Khi lạm phát
giảm xuống thấp hơn dự kiến như ở Mỹ (những năm đầu của thập niên 80) hay ở Nhật
(trong thời gian gần đây), khoản nợ của các doanh nghiệp trong giai đoạn thực tăng và
giá trị thuần của nó trong giai đoạn thực thì giảm. Sự giảm sút trong giá trị thuần đã
làm tăng lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức đối với người cho vay. Dẫn đến làm co hẹp
các khoản cho vay, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và các hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, đối với các nước mới nổi, một sự giảm trong lạm phát không như dự
kiến không tạo ra nhiều hệ quả bất lợi trực tiếp như đối với các nước phát triển. Vì ở
cá