Sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) để đánh giá giá trị của việc duy trì hệ thống cây xanh trên địa bàn thành phố Hà Nội

- Đề án môn học là hình thức nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên chuyên ngành, tôi là sinh viên của khoa thương mại dưới sự hướng dẫn của giáo viên đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy Cấn Anh Tuấn tôi đã lựa chọn đề tài: ''Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam'' , trong bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức thương mại quốc tế sự tác động và ảnh hưởng của nó là rất lớn đến kinh tế nước ta. Tổ chức thương mại quốc tế còn rất mới lạ với Việt Nam ta và ngành dệt may Việt Nam là một ngành phát triển rất mạnh của kinh tế Việt Nam và là một ngành chủ lực, nó có tỷ trọng xuất khẩu cao và được nhà nước rất quan tâm chú trọng phát triển. Ngành dệt may có thể nói là ngành trọng điểm của Việt Nam, ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Do vậy sự tác động của tổ chức thương mại quốc tế đến kinh tế việt nam là rất lớn vậy nên nó tác động lên toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đề tài giúp ta hiểu thêm về tổ chức, ngành và sự tác động của tổ chức tới ngành dệt may Việt Nam và cũng tác chung tới nền kinh tế. - Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này với mục tiêu là giúp ta hiểu thêm về tổ chức thương mại quốc tế và ngành dệt may Việt Nam đang lớn mạnh của nước nhà để cũng hiểu được nó tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế như thế nào? để có những chiến lược và chính sách cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp, tận dụng cơ hội cho việc gia nhập WTO tạo cho kinh tế Việt Nam những bước phát triển lớn mạnh, có thể hội nhập được với trường quốc tế. - Tuy đối tượng tôi nghiên cứu ở đây chỉ là tổ chức thương mại quốc tế, ngành dệt may Việt Nam, và sự tác động của tổ chức đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, nhưng chúng ta có thể hiểu chung cho nên kinh tế Việt Nam và với phạm vi nghiên cứu trong nền kinh tế việt nam cụ thể là ngành dệt may Việt Nam với phương pháp biện chứng duy vật và lôgic để tạo ra cho vấn đề nghiên cứu có tinh chinh xác cao và sát thực dễ hiểu. Đề tài đi vào nghiên cứu nội dung tuy có sự mới mẻ nhưng cũng thể hiển được tính sát thực cao với nội dung: tổng quan về tổ chức thương mại quốc tế, thực trạng ngành dệt may sau khi Việt Nam là thành viên của WTO vói những tác động tích cực, tiêu cực, kết quả, hạn chế, và từ đó có những giả pháp cho ngành.

doc28 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1917 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) để đánh giá giá trị của việc duy trì hệ thống cây xanh trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH DỆT MAY LỜI NÓI ĐẦU - Đề án môn học là hình thức nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên chuyên ngành, tôi là sinh viên của khoa thương mại dưới sự hướng dẫn của giáo viên đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy Cấn Anh Tuấn tôi đã lựa chọn đề tài: ''Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam'' , trong bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức thương mại quốc tế sự tác động và ảnh hưởng của nó là rất lớn đến kinh tế nước ta. Tổ chức thương mại quốc tế còn rất mới lạ với Việt Nam ta và ngành dệt may Việt Nam là một ngành phát triển rất mạnh của kinh tế Việt Nam và là một ngành chủ lực, nó có tỷ trọng xuất khẩu cao và được nhà nước rất quan tâm chú trọng phát triển. Ngành dệt may có thể nói là ngành trọng điểm của Việt Nam, ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Do vậy sự tác động của tổ chức thương mại quốc tế đến kinh tế việt nam là rất lớn vậy nên nó tác động lên toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đề tài giúp ta hiểu thêm về tổ chức, ngành và sự tác động của tổ chức tới ngành dệt may Việt Nam và cũng tác chung tới nền kinh tế. - Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này với mục tiêu là giúp ta hiểu thêm về tổ chức thương mại quốc tế và ngành dệt may Việt Nam đang lớn mạnh của nước nhà để cũng hiểu được nó tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế như thế nào? để có những chiến lược và chính sách cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp, tận dụng cơ hội cho việc gia nhập WTO tạo cho kinh tế Việt Nam những bước phát triển lớn mạnh, có thể hội nhập được với trường quốc tế. - Tuy đối tượng tôi nghiên cứu ở đây chỉ là tổ chức thương mại quốc tế, ngành dệt may Việt Nam, và sự tác động của tổ chức đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, nhưng chúng ta có thể hiểu chung cho nên kinh tế Việt Nam và với phạm vi nghiên cứu trong nền kinh tế việt nam cụ thể là ngành dệt may Việt Nam với phương pháp biện chứng duy vật và lôgic … để tạo ra cho vấn đề nghiên cứu có tinh chinh xác cao và sát thực dễ hiểu. Đề tài đi vào nghiên cứu nội dung tuy có sự mới mẻ nhưng cũng thể hiển được tính sát thực cao với nội dung: tổng quan về tổ chức thương mại quốc tế, thực trạng ngành dệt may sau khi Việt Nam là thành viên của WTO vói những tác động tích cực, tiêu cực, kết quả, hạn chế, và từ đó có những giả pháp cho ngành. - Đề tài được tôi lựa chọn và nghiên cứu rất kỹ càng mong rằng nó sẽ giúp tôi và mọi ngưòi có một vốn kiến thức nho nhỏ nắm bắt được phần nào kinh tế xã hội. tuy vậy nhưng không thể chánh khỏi những thiếu sót mong các bạn góp ý cho ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Chương I TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Lịch sử hình thành và phát triển - WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới ( World Trade Organization ) tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới.Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết. Ngày thành lập:1/1/1995 Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization - WTO) là tổ chức quốc tế có trụ sở ở Genève (tiếng Anh: Geneva, tiếng Đức: Genf), Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5 năm 2005, ông Pascal Lamy được bầu làm tổng giám đốc thay cho ông Supachai Panitchpakdi, người Thái Lan, kể từ 1 tháng 9 năm 2005. Tính đến ngày 7 tháng 11 năm 2006, WTO có 150 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành viên của WTO (WTO, 2004c).Trong thập niên 1990 WTO là mục tiêu chính của phong trào chống toàn cầu hóa. -Nguồngốc: Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ ( Lisa Wilkins, 1997). ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. - WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 . - Chức năng: WTO có các chức năng sau: Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO Diễn đàn đàm phán về thương mại Giải quyết các tranh chấp về thương mại Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác - Đàm phán: Phần lớn các quyết định của WTO đếu dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các thành viên chấp nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có được một quyết định đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng những cách diễn đạt chung chung trong hiệp định đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự nhất trí của tất cả các thành viên, mà qua một quá trình đàm phán không chính thức giữa những nhóm nước. Những cuộc đàm phán như vậy thường được gọi là "đàm phán trong phòng Xanh" (tiếng Anh: "Green Room" negotiations), lấy theo màu của phòng làm việc của Tổng giám đốc WTO tại Geneva, Thụy Sỹ. Chúng còn được gọi là "Hội nghị Bộ trưởng thu hẹp" (Mini-Ministerials) khi chúng diễn ra ở các nước khác. Quá trình này thường bị nhiều nước đang phát triển chỉ trích vì họ hoàn toàn phải đứng ngoài các cuộc đàm phán như vậy. Richard Steinberg (2002) lập luận rằng mặc dù mô hình đồng thuận của WTO đem lại vị thế đàm phán ban đầu dựa trên nền tảng luật lệ, các vòng đàm phán thương mại kết thúc thông qua vị thế đàm phán dựa trên nền tảng sức mạnh có lợi cho Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, và có thể không đem đến sự cải thiện Pareto. Thất bại nổi tiếng nhất và cũng gần đây nhất trong việc đạt được một sự đồng thuận là tại các Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ở Seattle (1999) và Cancún (2003) do một số nước đang phát triển không chấp thuận các đề xuất được đưa ra. WTO bắt đầu tiến hành vòng đàm phán hiện tại, Vòng đàm phán Doha, tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 4 diễn ra tại Doha, Qatar vào tháng 11 năm 2001. Các cuộc đàm phán diễn ra căng thẳng và chưa đạt được sự nhất trí, mặc dù đàm phán vẫn đang tiếp diễn qua suốt Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 tại Cancún, Mexico vào năm 2003 và Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 tại Hồng Kông từ ngày 13 tháng 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 2005. - Giải quyết tranh chấp Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động như một trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng quy định của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc thực thi các quyết định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng một nước thành viên khác đã vi phạm quy định của WTO. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Ở cấp sơ thẩm, tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp. Ban hội thẩm này thông thường gồm 3 chuyên gia trong lĩnh vực thương mại liên quan. Ban hội thẩm sẽ nghe lập luận của của các bên và soạn thảo một báo cáo trình bày những lập luận này, kèm theo là phán quyết của ban hội thẩm. Trong trường hợp các bên tranh chấp không đồng ý với nội dung phán quyết của ban hội thẩm thì họ có thể thực hiện thủ tục khiếu nại lên Cơ quan phúc thẩm. Cơ quan này sẽ xem xét đơn khiếu nại và có phán quyết liên quan trong một bản báo cáo giải quyết tranh chấp của mình. Phán quyết của các cơ quan giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ được thông qua bởi Hội đồng Giải quyết Tranh chấp. Báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực cuối cùng đối với vấn đề tranh chấp nếu không bị Hội đồng Giải quyết Tranh chấp phủ quyết tuyệt đối (hơn 3/4 các thành viên Hội đồng giải quyết tranh chấp bỏ phiếu phủ quyết phán quyết liên quan). Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO không có các biện pháp sửa chữa theo như quyết định của Hội đồng Giải quyết Tranh chấp, Hội đồng có thể ủy quyền cho thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa" (trừng phạt thương mại). Những biện pháp như vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng được áp dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế mạnh như Hoa Kỳ hay Liên minh châu Âu. Ngược lại, ý nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên đi kiện có tiềm lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh tế mạnh hơn, chẳng hạn như trong tranh chấp mang mã số DS 267 về trợ cấp bông trái phép của Hoa Kỳ. -Cơ cấu tổ chức Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù. + Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO. + Cấp thứ hai: Đại Hội đồng Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO. Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO. Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương). Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn. + Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO. Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa. Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ. Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ. + Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. - Các hiệp định: Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15 tháng 4 năm 1994. Bốn phụ lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên, các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn đề không đạt được đồng thuận tại diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành viên của WTO phải ký kết và phê chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994) Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS) Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMS) Hiệp định về Nông nghiệp (AoA) + Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC) + Hiệp định về Chống bán Phá giá + Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống Trợ cấp Hiệp định về Tự vệ + Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu + Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS) + Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT) + Hiệp định về Định giá Hải quan + Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển + Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO) + Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp Một số nguyên tắc của WTO Các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) rất nhiều và phức tạp bao gồm cả nông nghiệp, dệt may, ngân hàng, viễn thông, nông nghiệp và cả thực phẩm... Tuy nhiên, xuyên suốt các hiệp định này là những nguyên tắc, và chúng được coi là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương. a. Thương mại không phân biệt đối xử: thể hiện ở hai nguyên tắc: - Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc: Tối huệ quốc có nghĩa là “nước (được) ưu đãi nhất”, “nước (được) ưu tiên nhất”. Nội dung của nguyên tắc này được WTO quy định rằng các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc là mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác “ưu tiên nhất”. Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được “ưu tiên nhất”. - Nguyên tắc đối xử quốc gia là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa. Nội dung của nguyên tắc này là hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này:  Bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới,trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước. Thương mại ngày càng tự do hơn là nhằm thực thi được mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hóa Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO đôi khi được miêu tả như là một hệ thống "thương mại tự do", tuy nhiên điều đó không hoàn toàn chính xác. Hệ thống này vẫn cho phép có sự tồn tại của thuế quan và, trong một số trường hợp nhất định, vẫn cho phép có các biện pháp bảo hộ. Như vậy, nói một cách chính xác hơn thì WTO đem lại một sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng hơn. WTO cũng có thể hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định b. Nguyên tắc tiếp cận thị trường: - Nguyên tắc tiếp cận thị trường thực chất là việc mở của thị trường, hàng hoá dịch vụ và đầu tư ngôàich các quốc gia khác trong khối. trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả quốc gia tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường thì điều đó đồng nghĩa với một việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở. Về mặt chính trị, nguyên tắc này thể sự tự do hoá thương mại của WTO . các rào cản thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn, có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. mức đọ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. tuy nhiên, mức độ thực hiện tiếp cận thị trường của các quốc gia tương đối khác nhau. về mặt pháp lý, nguyên tắctiếp cận thị trường thể hiện nghĩa vụ và tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà các nước chấp đã chấp nhận khi đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới. c. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: Nguyên tắc cạnh tranh công bằng thể hiện sự tự do cạnh tranh trong nhưng điều kiệnbình đẳng như nhau. Nguyên tắc này nhằm hạn chế những tác động nhưng tiêu cực của biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành một số đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. d. Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách.
Luận văn liên quan