Sự phát triển của hệ thống vệ tinh và phân tích cấu trúc mạng thông tin vệ tinh di động

Hệ thống thông tin di động được chia làm 2 loại chính là:Trên măt đất và vệ tinh. Ơ cả hai loại hình này tính di động có được là do kết nối tần số vô tuyến (RF) giữa chuyển tiếp và nối với mạng cố định và mỗi thuê bao người dùng, cho đến gần đây cả hai hệ thống này vần còn phát triển độc lập. Hệ thống di động mặt đất thích hợp nhất với môi trường ở thành phố, trái lại hệ thống di động vệ tinh lại cung cấp các giải pháp thông tin có hiệu quả cho các vùng sâu vùng xa như ngoài khơi, hành lang hàng không hay những vùng heo hút. Đầu năm 1990 công nghệ MSS đã phát triển vượt bậc đến mức mà các nhà lập kế hoạch hệ thống đã bắt đầu định giá được những nguồn lợi và kỹ năng có được từ việc hợp nhất hai công nghệ này từ đó dẫn đến sự khởi đầu của quá trình từng bước hợp nhất của hai hệ thống vào cuối thập kỷ tiến tới hợp nhất hoàn toàn trong tương lai gần.

doc68 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2198 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự phát triển của hệ thống vệ tinh và phân tích cấu trúc mạng thông tin vệ tinh di động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I Sự phát triển của hệ thống thông tin di động vệ tinh I. Sự phát triển của ngành viễn thông di động Hệ thống thông tin di động được chia làm 2 loại chính là:Trên măt đất và vệ tinh. Ơ cả hai loại hình này tính di động có được là do kết nối tần số vô tuyến (RF) giữa chuyển tiếp và nối với mạng cố định và mỗi thuê bao người dùng, cho đến gần đây cả hai hệ thống này vần còn phát triển độc lập. Hệ thống di động mặt đất thích hợp nhất với môi trường ở thành phố, trái lại hệ thống di động vệ tinh lại cung cấp các giải pháp thông tin có hiệu quả cho các vùng sâu vùng xa như ngoài khơi, hành lang hàng không hay những vùng heo hút. Đầu năm 1990 công nghệ MSS đã phát triển vượt bậc đến mức mà các nhà lập kế hoạch hệ thống đã bắt đầu định giá được những nguồn lợi và kỹ năng có được từ việc hợp nhất hai công nghệ này từ đó dẫn đến sự khởi đầu của quá trình từng bước hợp nhất của hai hệ thống vào cuối thập kỷ tiến tới hợp nhất hoàn toàn trong tương lai gần. I.1. Hệ thống mặt đất người ta đã nhận ra tiềm năng thông tin di động ngay từ những buổi đầu của vô tuyến vào cuối những năm 1800 vô tuyến di động sử dụng sớm nhất là trong ngành hàng hải và cưu hộ. Trước và trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 hệ thống thông tin di động chỉ được giới hạn trong lĩnh vực quân sự. Các đèn chân không và pin làm cho máy điện đài trở nên đồ sộ hạn chế tác dụng của chúng trong chuyên môn đến những năm 1950 sự tiến bộ về công nghệ đã cho gia đời các máy bộ đàm FM/VHF ( điều tần bằng són cực ngắn ) mở rộng khả năng áp dụng của hệ thống di động tới các phương tiện di động cá nhân sự lớn mạnh của vô tuyến di động rất còn chậm chạp cho đến những năm 1970 do việc mở rộng dịch vụ trong băng tần được phép là rất kho khăn. Nhìn chung các dịch vụ thông tin di động vẫn còn khá đắt ngay cả khi cước phí của các dịch vụ di động có giảm đáng kể thì nhân tố cản trở sự phát triển của các dịch vụ này chính là sự khan hiếm phổ. Khái niệm vô tuyến tế bào đã đưa ra một giải pháp cung cấp cho một số lượng lớn các thuê bao ở những vùng phổ bị hạn chế được đề xuất tại phòng thí nghiệm Bell vào những năm 1940 phải đến những năm 1980 mới có công nghệ thưc hiện khái niệm này. Năm 1946 máy điện đài di động AT.T đã được phép tiếp cận mạng thông tin di động của Mỹ. Dịch vụ này có tên là dịch vụ điện thoại di động gọi tắt là MTS hoạt động ở dải tần số 35-150 MHz đây là hệ thống hướng dẫn điều khiển bằng tay người gọi tự chọn kênh nối và yêu cầu người phục vụ kết nối. Năm 1964 một hệ thống MTS cải tiến hoạt động song công tự động quay số và chuyển mạch đã ra đời. Ban đầu hệ thống này hoạt động hạn chế trên 11 kênh ở băng tần 152-158 MHz do nhu cầu ngày càng tăng năm 1969 dung lượng của hệ thống đã dạt tới 12 kênh trên băng tần 454-459 MHz mỗi vùng dịch vụ đều cố một trạm thu phát sóng riêng và chỉ dùng một kênh duy nhất do đó không thể thoả mãn nhu cầu, mỗi vùng phủ sóng chỉ có khoảng 550 thuê bao hạn chế khác của dịch vụi này là máy thu phát đồ sộ cần có loại pin dung lượng lớn việc giới thiệu vô tuyến tế bào chính là một bước đột phá lớn được mong đợi để giải quyết sự hạn chế của phổ hệ thống tế bào đầu tiên được biết đến như hệ thống điện thoại di động tiên tiến do hai tập đoàn AT&T và Motorola Inc đưa ra tại Mỹ. Một hệ thống tương tự cũng được thiết kế để hoạt động ở băng tần 800 MHz với công suất 666 cặp kênh tuy nhiên hệ thống tế bào đầu tiên lại được áp dụng ở Nhật Bản vào năm 1979, tiếp đó vào năm 1981 hệ thống điện thoại di động NMT được giới thiệu ở Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Thuỵ Điển, hệ thống (TACS) ở Anh và (AMPS) ở Mỹ được ứng dụng vào năm 1983. Các loại hệ thống khác cũng được phát triển và giới thiệu ở một số nước khác. Những nước phát triển nhanh chóng trong các lĩnh vực như vô tuyến, VLSI hay công nghệ máy tính đã làm giảm mạnh chi phí thông qua quy mô của các nền kinh tế cũng như sự gia tăng của hệ thống thông tin tư nhân. hàng loạt máy điện thoại tế bào các hệ thống cũng như dịch vụ viễn thông khác được đưa vào sử dụng. Tỷ lệ tăng trưởng này còn được đánh giá qua một bảng dự toán cho thấy tại Anh 60% dân số sẽ sử dụng điện thoại di động vào cuối năm 2000. Sự thành công về mặt thương mại của mạng điện thoại tế bào cũng để lại hậu quả là sự gia đời của rất nhiều hệ thống không tương thích với nhau dẫn đến việc các thuê bao không thể sử dụng điện thoại của mình ngoài vùng đăng ký, các nỗ lực được tập chung giải quyết vấn đề này đã dẫn đến sự ra đời của hệ thống kỹ thuật số thế hệ thứ 2 tiêu biểu là hệ thống GSM ở Châu Âu có khả năng chuyển vùng giữa các nước. Mặc dù hệ thống tế bào đã cho hiệu quả phổ cao nhưng dung lượng thấp vẫn là vấn đề bức xúc và những nỗ lực để nâng cao dung lượng vẫn đang được tiếp tục. Tại Mỹ dựa vào các sóng mang của hệ thông AMPS đã giảm từ 300 KHz xuông còn 10khz. Cách thứ hai là việc đưa ra kỹ thuật nén âm kỹ thuật số dùng với TDMA nhằm tăng dung lượng lên một bậc điều chế trải phổ với CDMA là một cách khác nữa những người đề xuất phương pháp này công bố rằng dung lượng của CDMA bằng 10- 20 lần so với AMPS. Các hệ thống thông tin cá nhân gần đây dựa trên công nghệ GSM và công nghệ trải phổ được gọi là IS-136 hay D-AMPS. Hệ thống tế bào thế hệ thứ 3 dựa trên những tiêu chuẩn chung đang được giới thiệu ở một số nước Châu Âu và một số nước khác nhằm tạo ra tính đồng nhất trong thông tin di động thế giới, từ đó mang lại lợi nhuận cho nhà khai thác, sản xuất cũng như người sử dụng. Người ta cũng hy vọng rằng hệ thống thông tin vệ tinh cũng trở thành một thành phần của hệ thống rộng khắp này. Hệ thống này sẽ cung cấp các dịch vụ băng tần với tính lưu động lớn hơn. I.1.2 Hệ thống thông tin vệ tinh : Những thí nghiệm đầu tiên về thông tin di động được cơ quan hàng không và không gian quốc gia Mỹ (Na Sa) chỉ đạo thực hiện. Một số dự án MSS trước đó đã không bao giờ được thực hiện do tính rủi ro về kỹ thuật cũng như tài chính. Tổ chức hàng hải quốc tế đã nhận ra tiềm năng cung cấp hệ thống thông tin có độ tin cậy cao cho các tầu thuyền của hệ thống vệ tinh. Hệ thống thông tin đang được thịnh hành lúc đó sử dụng băng tần cao HF (sóng ngắn) cho thấy độ tin cậy thấp của chúng khi gặp thời tiết xấu mất nhiều thời gian để liên lạc từ ngoài khơi vào đất liền. Tầu thuyền ở ngoài khơi xa thường biến mất mà không hề có dấu vết. Liên lạc bằng sóng vô tuyến qua vệ tinh cho độ tin cậy cao trong mọi điều kiện thời tiết biết được điểm mạnh này của phương tiện thông tin vệ tinh IMO đã thành lập một tổ chức có tên là cơ quan vệ tinh hàng hải quốc tế (Inmasat ). Cơ quan này được thành lập năm 1979 và từ năm 1982 các vệ tinh được đặt tại một số trạm đã hoạt động để thực hiện các dịch vụ thông tin sự thành công của các loại hình dịch vụ trên biển đã dẫn đến sự ra đời của các loại hình tương tự trên đất liền và trên không trung làm tăng sự phát triển của hệ thống MSS những năm 90 hệ thông thông tin khu vực được giới thiệu như hệ thống OmniTracs và EutelTracs ở Mỹ và châu Âu, đặc biệt là hệ thống AMSC ở Mỹ và Canada, Optus ở Uc và một số hệ thống khác ở Nhật. Các nghiên cứu về các quỹ đạo không địa tĩnh (GEOs) được thực hiện lần đầu tiên vào những năm 60 đó là vào những thời điểm rất khó khăn để có thể phóng vệ tinh lên (GEO) vì thế các quỹ đạo thấp hơn được xem là hợp lý kế đó GEO (quỹ đạo địa tĩnh) đã trở thành sự lựa chọn số 1 bởi những ưu thế ngày càng tăng. Non-GEOs vẫn còn được dùng trong 1 số ứng dụng riêng biệt như đo lường từ xa, do thám quân sự hay trắc địa. Ngành quốc phòng cũng quan tâm nhiều đến các ứng dụng của hệ thống vệ tinh quỹ đạo thấp đến cuối những năm 80 một nhóm nghiên cứu thuộc một trường đại học ở Anh đã nghiên cứu khả năng triển khai nhóm vệ tinh quỹ đạo tầm thấp cho hệ thống thông tin di động và đã đưa ra kết luận rằng những hệ thống này hoàn toàn có tính khả thi so với hệ thống vệ tinh địa tĩnh và điều này có thể thực hiện chỉ trong 1 thập kỷ, chỉ một năm sau Motorola đã công bố dự án hệ thống vệ tinh quỹ đạo thấp (LEO) cung cấp dịch vụ truyền âm thanh qua máy điện thoại cầm tay điều này đã khởi nguồn cho một loạt các hoạt động gây chấn động trong ngành thông tin vệ tinh và trong vòng 3 năm sau hàng loạt các công ty và tổ chức đã công bố những dự án tương tự hầu hết đều tập trung vào việc sử dụng nhóm vệ tinh không GEOs. Đang chú ý hơn cả trong các dự án này là hệ thống MEO của Inmasat nhưng do một công ty tư nhân có tên là ICO Global systems limied thực hiện và hệ thống LEO nổi tiêng vói thương hiệu Globalstas giữa những năm 90 các dự án điện thoại vệ tinh cầm tay sử dụng GEOs đã được công bố. Những dự án này có kế hoạch triển khai hàng trăm trạm thu phát với những máy phát có công suất lớn nhằm bù lại độ cao tương đối lớn của GEO có một điều thú vị rằng chỉ vài năm trước hệ thống địa tĩnh này đã bị từ bỏ. Tiếp đó là một loạt các hệ thống thông tin cá nhân (PCSs) dùng mạng cố định với các sản phẩm FSS đã lấn áp hầu hết mạng thuê bao của MSS. Hầu hết các hệ thống FSS đều hoạt động ở băng tần 20-30Ghz và ở nhiều quỹ đạo. Phần lớn các nhà thiết kế của các hệ thống vệ tinh này đều quan tâm đến lợi ích thu được từ sự hợp nhất 2 hệ thống vệ tinh và hệ thống mặt đất và việc kết nối này sẽ mở rộng hơn nữa hệ thống mạng các tổ chức quốc tế đề ra các tiêu chuẩn và các khái niệm cho các hệ thống mặt đất thế hệ thứ 3 bắt đầu xem xét vai trò của các hệ thống vệ tinh trong các hệ thống tương lai. Người ta cũng hiểu rằng hệ thống tế bào vẫn được tập trung nhiều ở những vùng đông dân cư do đó những hệ thống tương lai này sẽ kết hợp các giao diện để tạo nên khả năng hoạt động rộng khắp của cả 2 hệ thống vệ tinh và mặt đất. Bên cạnh đó vào những năm 90 công nghệ dẫn đường vệ tinh cho cá nhân và di động vẫn lớn mạnh không ngừng giá của các thiết bị dùng công nghệ GPS giảm xuống thấp tới mức hầu hết mọi ngươi đều sử dụng được một số ứng dụng khác kết kợp khả năng dẫn đường và liên lạc cũng được phát triển các hệ thống GEO. MSS đã đưa dẫn đường vào như 1 dịch vụ giá trị gia tăng. Tiến bộ nổi bật là việc giới thiệu một mạng vệ tinh có thể truyền trực tiếp tới các thuê bao cá nhân người ta hy vọng rằng hệ thống này sẽ trở lên phổ biến vào đầu thập kỷ này. Gần đây nhờ vào sự phát triển của ngành quảng cáo công nghệ đã thâm nhập vào đời sống cộng đồng trong lĩnh vực thông tin và toàn cầu hoá nền kinh tế. I.1.3 Cấu trúc hệ thống thông tin vệ tinh Các thành phần chính của thông tin vệ tinh di động được trình bầy ở (Hình I.3) hệ thống này cung cấp dịch vụ cho các thuê bao ở các vùng phủ sóng được xác định trước các thuê bao này liên lạc với các thuê bao di động hoặc thuê bao cố định thông qua một trong những vệ tinh có thể nhìn thấy được. Các thuê bao thuộc mạng cố định liên lạc qua các trạm cố định được gọi là các tổng đài cửa ngõ có thể tải được rất nhiều kênh liên lạc các máy di đông có thể đặt trên các phương tiện như tầu thuyền, máy bay, xe tải hoặc có thể mang theo bên người. Tuỳ từng vùng phủ sóng và ứng dụng phần không gian gồm 1 hay nhiều vệ tinh. Đo lường từ xa và các tram điều khiển ở mặt đất dùng để theo dõi và điều khiển vệ tinh tạo thành một phần của phần không gian để đơn giản hoá các đầu cuối di động người ta đã chuyển mọi tính phức tạp sang phần không gian, do đó các vệ tinh sẽ lớn và phức tạp hơn một vệ tinh địa tĩnh 3-4kw với 5-10 vùng phủ là loại đặc trưng ở thế hệ thứ 2 và ở thế hệ thứ 3 là 5kw với 100-200 vùng phủ sóng nhưng khó khăn chính trong việc cung cấp hệ thống thông tin di động vệ tinh là do môi trường truyền sóng và kích thước máy di động nhỏ. SCC NCC BMC MSC VLR VLR HLR HLR Mạng di động mặt đất Mạng cố định mặt đất Hình I.3 Các thành phần chính của một hệ thống thông tin vệ tinh di động hiện đại f1 f1 Vùng phục vụ Tần số tái sử dụng Tín hiệu Đường phục vụ Thông tin kết nối Kết nối với Anten Vệ tinh chuyển tiếp Như ta đã đề cập ở trên hệ thống vệ tinh thế hệ 1 và 2 đã cung xấp các dịch vụ có liên quan đến các máy di động tương đối lớn. Thế hệ thứ 3 còn có tên là “hệ thống siêu địa tĩnh” cung cấp các dịch vụ thoại hoặc đa phương tiện tới các máy cầm tay hay máy để bàn. Trạm điều khiển mạng (WCS) quản lí lưu lượng phát quảng bá thông tin mạng, quản lí thiết lập cuộc gọi và các tài nguyên vô tuyến khi thu được yêu cầu gọi WCS tìm và gán kênh từ tập kênh của nó khi hết cuộc gọi thì trả lại kênh. Bộ ghi đơn vị thường trú (HLR) và bộ ghi đơn vị tạm trú (VLR) quản lí sự di chuyển của thuê bao trong tầm điều khiển mạng (NCC) quản lí mạng còn trong tầm điều khiển vệ tinh (SCC) quản lí và điều khiển vệ tinh . Trung tân quản lí kinh doanh có trách nhiệm tính cước và chức năng kinh doanh khác. Cấu trúc của các hệ thống vệ tinh không địa tĩnh phức tạp hơn do sư di chuyển của các vệ tinh có liên quan đến người dùng vì thế một cuộc gọi có thể được liên kết bằng rất nhiều đường và vệ tinh phụ thuộc vào vệ tinh và vùng phủ sóng, sự định tuyến lại vùng được gọi như một sự chuyển giao có liên quan đặc biệt tới các dịch vụ tương tác sự định tuyến của cuộc gọi trong mạng có thể có được bằng một số biện pháp kỹ thuật. Cuộc gọi có thể định tuyến thông qua các liên kết liên vê tinh hoặc qua một hoặc nhiều lần thu phát của các liên kết vệ tinh mặt đất. Hình I.4a và I.4b chỉ ra cấu trúc của hệ thống vệ tinh không địa tĩnh triển khai các thu phát vệ tinh mặt đất và kết nối liên vệ tinh hệ thống Inidum triển khai kết nối liên vệ tinh trong khi hệ thống ICO dùng định tuyến mặt đất. Đối với hệ thống lưu trữ rồi mới truyền sự phủ sóng liên tục xẩy ra là chấp nhận được. Một thông điệp được lưu tại trạm mặt đât hoặc các bộ đệm vệ tinh và được gửi đi khi điểm đến được nhìn thấy. Constellation Vệ tinh thứ N Trạm cố định Định tuyến mặt đất a) b) Constellation Dữ liệu cơ sở từ xa Liên kết giữa các vệ tinh Vệ tinh thứ N Hình I.4 Hình I.5a và I.5b biểu diễn các thành phần chính của hệ thống lưu rồi phát với các bộ đệm trên mặt đất kết cấu của hệ thống vệ tinh bị ảnh hưởng bởi các yêu cầu dịch vụ và một số các vấn đề kỹ thuật có liên quan một số được tóm tắt như sau + Quỹ đạo Quỹ đạo được phân loại theo độ cao độ nghiêng độ lệch tâm độ cao quyết định diện tích phủ sóng của vệ tinh, vệ tinh ở độ cao hơn thì bao chùm một diện tích rộng hơn. Độ nghiêng ảnh hưởng đến phạm vi bao phủ lớn nhất, nhỏ nhất trên mặt đất là hai đầu cực của độ nghiêng quỹ đạo là xích đạo có độ nghiêng là 0 và một cực quỹ đạo có độ nghiêng 90 một quỹ đạo xích đạo. t= 0 Cơ quan Tin nhắn ‘M’ Vệ tinh t= t1 t= t2 Lưu giữ Lưu giữ Lưu giữ Tin nhắn ‘M’ Trạm cố định a) Constellation Lưu giữ Vùng cố định A Sở chỉ huy Vùng cố định N Vệ tinh tầm thấp Vệ tinh từ xa b) Hình I.5 Trái đất thấp sẽ bao phủ một vòng quanh xích đạo trong khi quỹ đạo cực sẽ bao phủ một vòng quanh cực trực giao với xích đạo, vì thế bao chùm toàn bộ trái đất do sự quay của trái đất từ đông sang tây độ lệch tâm của quỹ đạo xác định hình dáng của quỹ đạo các vệ tich trong quỹ đạo tròn cung cấp một vùng phủ chính xác của toàn cầu, trong khi các vệ tinh trong quỹ đạo hình elip xu hướng bao trùm mọt số vùng cụ thể bằng cách dừng lai trong một thời gian dài hơn. Ví dụ của chùm quỹ đạo thấp là hệ thống Iridum và hệ thống Global Star, hệ thống ICO biểu diễn hệ thống quỹ đạo nghiêng trái đất trung bình, hệ thống Inmasat sử dụng GEO, hệ thống Ellipso sử dụng kết hợp của quỹ đạo tròn và quỹ đạo hình elip ở độ cao hơn và trung bình bao phủ bởi quỹ đạo elip đồng bộ với mặt trời và khu vực xích đạo bởi quỹ đạo hình tròn. + Thông lượng Thông lượng của hệ thống là số đo của dung lượng của hệ thống tất cả MSS ngày nay sử dụng truyền dẫn kỹ thuật số do đó tốc độ truyền dữ liệu là một thách thức chung của sự phân loại. + Trễ cho phép Trễ được cho phép bởi một phụ thuộc ứng dụng hệ thống trễ tổng thể = 400ms giây nhiễu loạn cho một cuộc đàm thoại, nhưng trễ vài phút, vài giờ là chấp nhận được trong việc gửi e-mail thời gian trễ cho phép ảnh hưởng đến vài đặc tính của hệ thống vệ tinh di động. Hệ thống thời gian không thực sử dụng chuyển mạch gói trong đó các gói và bản tin được lưu tại các bộ đệm của các nút trung gian của đường liên kết và được truyền đi khi có điều kiện thích hợp Inmasat-c và Eutltracs hệ thống địa tĩnh sử dụng cấu trúc như thế. Hệ thống ORBCOM là loại hệ thống LBO (quỹ đạo thấp) lưu rồi truyền Đối với hệ thống địa tĩnh thời gian thực bỏ qua tắc nghẽn liên kết RF do che chắn tầm nhìn của vệ tinh không bị gián đoạn khi người dùng hoạt đọng trong phạm vi phủ sóng của nó biên giới của các vùng phủ là mờ nhạt, kéo dài hàng chục km điều đó dẫn đến sự giảm dần chất lượng tín hiệu đối với các phương tiện di chuyển chậm. Vì thế những phương tiện dịch chuyển chậm không cần chuyển tín hiệu cuộc gọi cho một chùm tia khác kế cận khi người dùng tiêu tốn một khoảng thời gian đáng kể tại khu vực mờ nhạt này nơi mà tín hiệu giảm cấp dần dần. Tuy nhiên sự chuyển giao là cần thiết đối với các phương tiện di chuyển nhanh như máy bay chẳng hạn trong hệ thống vệ tinh không địa tĩnh tầm nhìn biến đổi theo các vùng phủ động vì thế người dùng có vẻ sử dụng nhiều chùm tia khác nhau trong một cuôc gọi tạo lên sự chuyển giao cần thiết trong mạng + Tính kết nối Mạng phải có khả năng định vị một di động bị gọi và đinh tuyến các tín hiệu giữa các bên hiệu quả nhất có thể và duy trì cuộc gọi trong hệ thống GSM mỗi máy di động được đăng ký một cơ sở dữ liệu gọi là đăng ký định vị thường trú (HLR). Nếu máy di chuyển ra ngoài lãnh thổ đăng ký thường trú tự bản thân máy đăng ký với bộ ghi định vị tạm trú (VLR), VLR thông báo vị trí của máy khách tới HLR vì thế làm ổn định trạng thái định vị của máy bất cứ khi nào một cuộc gọi được gửi đến máy. Trung tâm chuyển mạch di động sẽ kiểm tra HLR của máy để định vị máy và thiết lập cuộc gọi thông qua một tuyến thích hợp (hình 1.4a) chỉ ra sơ đồ định tuyến trong hệ thống không điạ tĩnh cùng với các chặng vệ tinh mặt đất trong khi hình 1.4b trình bầy tuyến kết nối liên vệ tinh. + Môi trường vật lí Trong hệ thống vệ tinh dịch chuyển môi trường vật lí xung quanh một di chuyển cuối sử dụng ảnh hưởng quyết định môi trường có 3 tác động. - Nó làm nhiễu tính ổn định của sóng vô tuyến tạo ra ranh giới trong một quá trình, giới hạn kích cỡ vật lí của điểm chốt. - Từ điểm nhìn đối với sóng vô tuyến môi trường biển và hàng không tốt hơn đất liền nơi các mức độ tăng và giao động đa tuyến đặc biệt cao hơn, điều kiện truyền sóng vô tuyến giảm đáng kể khi môi trường thay đổi từ các xa lộ đến thành phố và dần dần xấu đi khi kích cỡ của an ten giảm, các bước và loại hình dịch vụ trực tiếp liên quan đến đặc tính tăng giảm âm gián đoạn mạch có thể làm ngắt liên kết vô tuyến gây lên sự không liên tục của các dịch vụ thời gian thực, trong khi đa tuyến ảnh hưởng sự điều biến và mã sơ đồ, cung cấp liên kết bề cao hơn như các sự suy yếu như tăng yêu cầu đối với nguồn vệ tinh Dippler Effect được giới thiệu bởi sự di động liên quan giữa vệ tinh và di động đó tuy nhiên là dạng suy yếu khác và trong phương diện đó, Kết nối đầu cuối hàng không biểu lộ sự sấu đi + Không gian vật lí sẵn có trong di động giới hạn trọng lượng và kích thước của an ten và máy thu phát vô tuyến. Thiết bị đầu cuối liên lạc trên tầu có thể to hơn một thiết bị dùng cho máy bay, thiết bị đầu cuối trên ô tô có thể nhỏ hơn hai loại trên, trong khi thiết bị đầu cuối cầm tay phải nhơ tương đối đẻ bỏ vào túi hoặc ví người dùng. Nhu cầu về sức mạnh tầu vũ trụ và tăng tính nhậy cảm khích cỡ thiết bị đầu cuối giảm xuống và các bước băng lên. Di động cá nhân cung cấp ứng dụng văn phòng chất lượng cao qua mạng Inmarsat. Điện thoại Inmarsat nhỏ nhẹ và có cơ cấu giao tiếp vệ tinh di động hiệu quả nặng khoảng 2kg tương đương với kích cỡ của máy. Một phần dữ liệu dễ dàng Capsat Messenger cũng cung cấp âm thanh trung thực và các dịch vụ Fax nó dễ dàng được di chuyển tới vùng được coi là xa xôi nhất dễ dàng cài đặt và sử dụng. + Truy cập vệ tinh Trong môi trường MSS hàng ngàn người chia sẻ nguồn vệ tinh và vì thế truy cập vệ tinh có hiệu quả là rất quan trọng phân quyền (DA), nhất kênh (SCPC) tần số hoặc sự phối hợp TDMA nơi mà nhóm trực kênh được chia sẻ bởi tất cả người dùng trong mỗi cuộc gọi hoặc gói cơ bản đưa ra một giải pháp hiệu quả cho liên lạc mạch hoặc kiểu gói . Trự