Tác động của công ty đa quốc gia đối với nền kinh tế- Vấn đề chuyển dịch công ty

Mcdonald từlâu đã được biết đến nhưlà một trong những thương hiệu “thức ăn nhanh” nổi tiếng thếgiới. Nhưng ít người biết rằng nguồn gốc của Mcdonald chính là nhà hàng “The Airdrome” do Patrick McDonald lập ra vào năm 1937 tại Monrovia, California, với món ăn chính của nhà hàng chỉlà bánh hamburger và nước ép cam. Ít lâu sau, hai người con trai của ông, Mac và Dick đã quyết định chuyển toàn bộnhà hàng vềSan Bernardino đồng thời đổi tên thành “nhà hàng Mcdonald” (1940). Vào năm 1953, anh em nhà Mac đã tiến hành franchise 1 thành công ởPhoenix, Arizona và Downey, thuộc bang California, Mỹ. Tuy nhiên phải đến năm 1955, sau khi Ray Kroc đến tham quan và nhận thấy rằng “cách thức kinh doanh của Mcdonald’s là một chìa khóa đểthành công”, ông đã đềnghịMac và Dick “franchise” nhà hàng trong phạm vi cảnước. Sau khi nhận được sự đồng thuận, Ray Kroc đã nhanh chóng cho ra đời một chuỗi nhà hàng hoạt động rộng khắp nước Mỹ. Với tốc độphát triển đáng kinh ngạc, chỉtrong vòng 3 năm đầu tiên hệthống các cửa hàng của McDonald’s đã bán được hơn 100 triệu chiếc bánh hamburger và cửa hàng McDonald's thứ100 được khai trương 4 năm sau đó. Vì thế đến năm 1961 Ray Kroc quyết định trả2.7 triệu USD cho anh em nhà Mac đểmua lại khoản phí bằng 1% doanh sốmà hàng năm ông phải trảvà một mình làm chủcái tên Mcdonald’s.

pdf75 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2728 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của công ty đa quốc gia đối với nền kinh tế- Vấn đề chuyển dịch công ty, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------- TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG TY ĐA QUỐC GIA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CÔNG TY GVHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa. Lớp: TCDN4 – Khóa 34. 1. Trương Quang Quốc Đại. 2. Nguyễn Thị Phương Loan. 3. Lê Trường Sơn. 4. Nguyễn Nữ Anh Vy. 5. Võ Thị Như Quỳnh. TP.HCM, Tháng 9 năm 2011 Bài luận chủ đề 3 1 MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................................ 3 DANH MỤC HÌNH ........................................................................................................ 4 PHẦN 1. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA MNCs ĐỐI VỚI QUỐC GIA SỞ TẠI – TRƯỜNG HỢP MCDONALD’S VÀ NỀN KINH TẾ ÚC......................................... 5 1.1. Phương thức sở hữu kinh doanh của Mcdonald’s ........................................ 6 1.1.1. Các phương thức sở hữu của công ty đa quốc gia ........................................... 6 1.1.2. Thuận lợi và khó khăn của phương thức nhượng quyền thương hiệu .......... 9 1.1.3. Hệ thống nhượng quyền thương hiệu của McDonald’s ................................ 13 1.2. Tác động của Mcdonald’s dưới góc độ kinh tế Úc ...................................... 19 1.2.1. Đóng góp vào GDP, thuế chính phủ, tạo công ăn việc làm ......................... 19 1.2.2. Góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng và thiết kế 22 1.2.3. Kích thích sự phát triển của ngành nông nghiệp, gia tăng xuất khẩu ........ 24 1.3. Tác động của Mcdonald’s dưới góc độ trách nhiệm xã hội và quan hệ cộng đồng ................................................................................................................... 25 1.3.1. Lực lượng lao động và Môi trường làm việc ................................................... 26 1.3.2. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực ................................................................. 30 1.3.3. Giá trị đóng góp cho cộng đồng – Tổ chức từ thiện RMHC ........................ 31 1.3.4. Phát triển bền vững thông qua các chính sách bảo vệ môi trường ............ 34 1.3.5. “Tình huống kinh doanh” trong các hoạt động xã hội ................................. 40 2 PHẦN 2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA MNCs ĐỐI VỚI QUỐC GIA CHỦ NHÀ – TRƯỜNG HỢP CHUYỂN DỊCH CÔNG TY CỦA STANLEY WORKS ............. 43 2.1. Tổng quan về Inversion .................................................................................. 43 2.1.1. Inversion là gì? ...................................................................................................... 43 2.1.2. Lịch sử của chuyển dịch công ty ........................................................................ 43 2.1.3. Động cơ thúc đẩy thực hiện chuyển dịch công ty ........................................... 46 2.1.4. Cách thức thực hiện.............................................................................................. 48 2.1.5. Sự phát triển của chuyển dịch công ty trong những năm vừa qua .............. 54 2.1.6. Các chính sách đặt ra đối với chuyển dịch công ty ....................................... 57 2.2. Stanley Works và kế hoạch Inversion .......................................................... 59 2.2.1. Giới thiệu về công ty Stanley Works ................................................................. 59 2.2.2. Kế hoạch Inversion của Stanley Works ............................................................ 60 2.3. Lợi ích và chi phí của Stanley Works khi thực hiện Inversion .................. 62 2.3.1. Những lợi ích của Stanley Works khi Inversion .............................................. 62 2.3.2. Những yếu tố cản trở Stanley thực hiện Inversion ......................................... 66 2.3.3. Những thay đổi trong cấu trúc nếu Stanley Works tiến hành Inversion .... 69 2.4. Tiến trình thực hiện Inversion của Stanley Works ..................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 73 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1. Phương thức tham gia thị trường Bảng 1.2. Báo cáo doanh thu hợp nhất của Tổng công ty McDonald’s Bảng 1.3. Số lượng và phân phối chuỗi nhà hàng McDonald’s tại Úc Bảng 1.4. Đóng góp của Mcdonald’s ÚC cho RMHC năm 2009 Bảng 1.5. Tổng lượng rác thải trong năm 2008 – 2009 Bảng 2.1. Những thay đổi ước tính trong thu nhập của Stanley Works sau khi thực hiện chuyển dịch 4 DANH MỤC HÌNH Hình 1.1. Tỷ trọng phân bố lao động theo giới tính Hình 1.2. Tỷ trọng giữa rác tái chế và chưa được tái chế Hình 2.3. Giá chứng khoán của Stanley Works (SWK) sau công bố kế hoạch Inversion Hình 2.1. Nghĩa vụ thuế của Stanley Works tại Mỹ trước khi thực hiện chuyển dịch Hình 2.2. Nghĩa vụ thuế của Stanley Works tại Mỹ sau khi thực hiện chuyển dịch công ty ra nước ngoài 5 PHẦN 1. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA MNCs ĐỐI VỚI QUỐC GIA SỞ TẠI – TRƯỜNG HỢP MCDONALD’S VÀ NỀN KINH TẾ ÚC Mcdonald từ lâu đã được biết đến như là một trong những thương hiệu “thức ăn nhanh” nổi tiếng thế giới. Nhưng ít người biết rằng nguồn gốc của Mcdonald chính là nhà hàng “The Airdrome” do Patrick McDonald lập ra vào năm 1937 tại Monrovia, California, với món ăn chính của nhà hàng chỉ là bánh hamburger và nước ép cam. Ít lâu sau, hai người con trai của ông, Mac và Dick đã quyết định chuyển toàn bộ nhà hàng về San Bernardino đồng thời đổi tên thành “nhà hàng Mcdonald” (1940). Vào năm 1953, anh em nhà Mac đã tiến hành franchise1 thành công ở Phoenix, Arizona và Downey, thuộc bang California, Mỹ. Tuy nhiên phải đến năm 1955, sau khi Ray Kroc đến tham quan và nhận thấy rằng “cách thức kinh doanh của Mcdonald’s là một chìa khóa để thành công”, ông đã đề nghị Mac và Dick “franchise” nhà hàng trong phạm vi cả nước. Sau khi nhận được sự đồng thuận, Ray Kroc đã nhanh chóng cho ra đời một chuỗi nhà hàng hoạt động rộng khắp nước Mỹ. Với tốc độ phát triển đáng kinh ngạc, chỉ trong vòng 3 năm đầu tiên hệ thống các cửa hàng của McDonald’s đã bán được hơn 100 triệu chiếc bánh hamburger và cửa hàng McDonald's thứ 100 được khai trương 4 năm sau đó. Vì thế đến năm 1961 Ray Kroc quyết định trả 2.7 triệu USD cho anh em nhà Mac để mua lại khoản phí bằng 1% doanh số mà hàng năm ông phải trả và một mình làm chủ cái tên Mcdonald’s. Một nhà hàng Mcdonald’s ra đời có thể dưới nhiều hình thức như nhượng quyền thương hiệu, công ty con hay công ty liên doanh. Tuy nhiên, phổ biến nhất vẫn là hoạt động nhượng quyền thương hiệu (franchise) vì những đặc tính ưu việt của nó. Tính đến năm 2010, Mcdonald’s đã sở hữu 32.737 nhà hàng, đặt tại 119 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có tới 26.388 nhà hàng ra đời dưới hình thức franchise 1 Nhượng quyền thương hiệu. Sẽ được giải thích rõ hơn trong phần 1.1 6 (chiếm 80.5%)2. Hoạt động franchise ra nước ngoài đầu tiên được Mcdonald’s thực hiện vào năm 1967 tại British Columbia, Canada. Đến năm 1971, Mcdonald đồng loạt tiến hành franchise qua nhiều quốc gia ở Châu Âu và Châu Á như Nhật Bản, Canada, Anh, Úc. Trong đó, có thể nói Úc là một trong những quốc gia có đóng góp lớn nhất vào doanh thu của công ty. Với nhà hàng McDonald’s đầu tiên của Úc được khai trương vào tháng 5 năm 1971 tại Yagoona thuộc ngoại ô Sydney. Tính đến nay đã có trên 780 nhà hàng trên khắp nước Úc, tạo ra việc làm cho hơn 85.000 người. 1.1. Phương thức sở hữu kinh doanh của Mcdonald’s Công ty đa quốc gia có nhiều lựa chọn về phương thức sở hữu (entry mode) khác nhau để mở rộng hoạt động ra thị trường toàn cầu. Đối với McDonald, phương thức nhượng quyền thượng hiệu đóng góp không nhỏ vào sự thành công của nó. Để thấy được những đặc điểm trong phương thức nhượng quyền thương hiệu của McDonald và nguyên nhân khiến cho nhượng quyền thương hiệu trở nên phổ biến, trong phần này chúng ta sẽ làm rõ 3 nội dung chính: (i) sơ lược các phương thức sở hữu của công ty đa quốc gia khi mở rộng hoạt động sản xuất; (ii) ưu và nhược điểm của phương thức nhượng quyền thương hiệu; (iii) đặc điểm nhượng quyền thương hiệu của McDonald. 1.1.1. Các phương thức sở hữu của công ty đa quốc gia Để mở rộng hoạt động ra thị trường toàn cầu, công ty đa quốc gia phải lựa chọn các phương thức tham gia khác nhau nhằm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Theo tác giả Spulber (2007), chỉ có một số ít các công ty có quy mô đủ lớn và hoạt động sản xuất đa dạng mới có thể đơn phương tham gia vào thị trường toàn cầu. Một số trường hợp ngoại lệ có thể kể đến là: người khổng lồ trong lĩnh vực bán lẻ Wal-Mart và Carrefour tự xây dựng riêng cho họ hệ thống phân phối và mạng lưới cửa hàng phủ rộng trên toàn cầu. Nhà sản xuất ôtô Toyata tự mình đưa các sản phẩm và thiết kế vào thị trường bên 2 Nguồn: 7 cạnh hệ thống nhà cung cấp phụ tùng và đại lý bán lẻ của nó. Công ty dầu như Exxon Mobil hoặc BP bao phủ thị trường toàn cầu bằng hệ thống phân phối theo chiều dọc, từ các mỏ dầu đến nhà mấy lọc dầu và các trạm xăng. Các công ty đa quốc gia trên đã chọn FDI và sở hữu toàn phần (company owned) khi tham gia vào thị trường toàn cầu. Các công ty khác thường lựa chọn giữa các giao dịch giao ngay (spot transactions) và kí kết các loại hợp đồng khác nhau khi tham gia vào thị trường cung ứng hoặc phục vụ người tiêu dùng. Chúng ta có thể quan sát trong hình dưới đây: Bảng 1.1. Phương thức tham gia thị trường Nguồn: Spulber (2007), Global Competitive Strategy, Cambrige University Press, Table 5 – 2. Có sáu phương thức khác nhau để công ty đa quốc gia có thể tham gia vào thị trường quốc tế. Từ trên xuống sẽ là sự suy giảm trong quyền kiểm soát hoạt động và tương ứng là sự suy giảm trong rủi ro mà các công ty đa quốc gia phải gánh chịu. Các giám đốc sẽ lựa chọn các phương án trên bảng 1.1 theo thuận lợi và khó khăn của hoạt động liên kết theo chiều dọc. Phương án giao dịch giao ngay với hoạt động bán đứt của nhà cung cấp hoặc cho khách hàng thể hiện tính liên kết theo chiều dọc thấp 8 nhất. Tăng trưởng (growth) và M&A thì hoàn toàn cung ứng FDI theo chiều dọc. Ở giữa, phương án hợp tác dưới dạng các liên minh hoặc liên doanh giữa các công ty, lúc này, các công ty tham gia sẽ thực hiện phân chia FDI cần thiết. Hiểu biết về thị trường sẽ là một tiêu chí quan trọng để đưa ra quyết định tham gia vào hoạt động phân phối. Nếu công ty đã khá gần gũi với khách hàng thì họ có thể trực tiếp nắm lấy hoạt động phân phối. Ngược lại, các công ty có thể kí kết hợp đồng với các nhà phân phối chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, ngay cả khi họ có nhiều kiến thức về thị trường thì họ cũng có thể tham gia vào các hợp đồng này để đối tác thực hiện các hoạt động sản xuất và R&D. Một sự thuận lợi của liên kết theo chiều dọc trong hoạt động phân phối là mối quan hệ khăng khít với khách hàng cuối cùng: bằng việc để cho các công ty khác thực hiện hoạt động phân phối, công ty có thể truy cập được thông tin khách hàng một cách gián tiếp. Liên minh và liên doanh (Alliances và Joint venture) không cần các đối tác phải tham gia liên kết theo chiều dọc, họ có thể liên kết các hoạt động thông qua các hợp đồng và các thỏa thuận bình thường. Để quyết định sẽ tham gia vào liên doanh hay liên minh, các công ty đa quốc gia sẽ xem xét chi phí xây dựng và duy trì mối quan hệ. Các liên minh và liên doanh quốc tế có chi phí quản lý cao và liên quan đến rủi ro khó khăn thực hiện giao kèo. Tuy nhiên, liên minh cho phép các công ty đa quốc gia chia sẽ kiến thức thị trường và liên kết các kỹ năng cần thiết khi tham gia một thị trường mới. Công ty cũng có thể tối thiểu hóa FDI cần thiết của liên kết theo chiều dọc bằng việc tham gia cấp quyền (licensing) quốc tế. Công ty đa quốc gia có thể cấp phép về bằng sáng chế, công nghệ, thương hiệu, nhãn hiệu, phương thức kinh doanh, thiết kế sản phẩm, phần mềm, phương thức giao dịch, và nhượng quyền thương hiệu. Công ty có thể cấp quyền công nghệ cho các nhà sản xuất – đảm nhận hoạt động sản xuất và bán sản phẩm. Với hoạt động cấp quyền công nghệ, công ty sẽ không tham gia vào hoạt động sản xuất và phân phối. Phương thức này cho phép các công ty bán công nghệ của 9 họ rộng rãi trên toàn cầu mà không cần phải gánh chịu thêm rủi ro từ việc cấp vốn FDI, học cách sản xuất và phân phối ra thị trường. Phương thức cấp quyền cho công ty đa quốc gia nhiều lợi thế so sánh. Họ sẽ tham gia vào thị trường với sở hữu trí tuệ (intellectual property). Sự gia tăng trong hoạt động cấp quyền công nghệ sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận và động lực đổi mới của công ty đa quốc gia. Bằng việc đầu tư phát triển hoạt động R&D nhiều hơn là hoạt động sản xuất và phân phối, công ty đa quốc gia có thể nhận được những lợi ích kinh tế mang tính quy mô hay phạm vi và gia tăng lợi nhuận từ quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, công ty đa quốc gia cũng không phải tốn chi phí dùy trì hoạt động sản xuất, tiếp thị, do đó chi phí vốn cũng thấp. Vì vậy, công ty đa quốc gia tham gia các hoạt động cấp quyền sẽ dễ dàng thích nghi với các thay đổi của thị trường hơn là liên kết theo chiều dọc. Nhượng quyền thương hiệu (franchising) là một phương thức quan trọng của cấp quyền. Nó cho phép công ty phát triển nhanh chóng với số vốn bỏ ra ít dựa vào các khoản đầu tư của người nhận quyền. Các công ty đa quốc gia có hoạt động nhượng quyền hàng đầu trên thế giới là: McDonald’s, Burger King, Yogen Früz Worldwide, Subway, Baskin Robbins, GNC Franchising, KFC, and Dairy Queen. Trong những thập niên gần đây, hoạt động nhượng quyền thương hiệu phát triển mạnh mẽ đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ. Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ làm rõ các ưu và nhược điểm của phương thức này để tạo nền tảng cho việc phân tích hoạt động nhượng quyền của McDonald. 1.1.2. Thuận lợi và khó khăn của phương thức nhượng quyền thương hiệu Thuận lợi Shane (2005) đã nêu 3 đặc điểm của hình thức nhượng quyền thương hiệu như sau: cung cấp một cơ chế tốt để lựa chọn và khuyến khích các nhà quản lý ở các cửa hàng; đưa ra một cơ chế hiệu quả về nhân sự và tài chính phục vụ cho sự tăng trưởng nhanh 10 chóng của công ty; cung cấp một mức sinh lợi cao cùng với rủi ro mang lại tương đối thấp. Việc sử dụng phương thức nhượng quyền thương hiệu còn cho phép công ty đa quốc gia giảm thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và trốn tránh nhiệm vụ của các nhà quản lý. Bằng hành động trả thù lao một cách xứng đáng với năng lực và sự cố gắng của họ, các cửa hàng nhượng quyền thương hiệu đưa ra một cơ chế khiến tự lựa chọn nhân sự với kỹ năng phù hợp và nổ lực điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi. Điều đó khiến cho người được nhượng quyền luôn làm việc tốt hơn là nhân viên làm công ăn lương trong việc gia tăng doanh số, kiểm soát chi phí một cách thận trọng và thúc đẩy sự sáng tạo. Tăng trưởng nhanh thực sự quan trọng với nhiều công ty, bởi vì, nó tạo nên sự gia tăng hiệu quả về mặt chi phí đối với công ty3. Bên cạnh đó, nhượng quyền cũng giúp cho công ty đa quốc gia huy động vốn rẻ và nhanh chóng, bởi vì, họ không phải gánh chịu các chi phí phát triển hệ thống cửa hàng và thoát khỏi các vấn đề về bất cân xứng thông tin trên thị trường. Hơn nữa, bằng việc tạo động lực để các nhà quản lý cửa hàng điều hành hoạt động sinh lợi, nhượng quyền thương hiệu giảm thiểu chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu – và do đó nó không bắt buộc công ty đa quốc gia phải từ bỏ quyền kiểm soát và sở hữu đối với cửa hàng nhượng quyền. Nhượng quyền thương hiệu còn cho phép công ty đa quốc gia bán và quản lý tốt thương hiệu được nhượng quyền và bên nhượng quyền, từ đó, khiến cho họ cung cấp sản phẩm và dịch vụ tới khách hàng cuối cùng hiệu quả hơn. Hơn nữa, cùng với việc giảm thiểu vấn đề bất cân xứng thông tin khiến cho công ty đa quốc gia có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh với chi phí nhân sự thấp hơn là trực tiếp sở hữu và quản lý các cửa hàng. 3 Các doanh nghiệp có quy mô lớn thường có lợi thế cạnh tranh và ưu thế trong việc thực hiện các giao dịch. Chẳng hạn, mua nguyên nhiên liệu đầu vào với chi phí rẻ hơn. 11 Nhượng quyền cung cấp cho công ty đa quốc gia một mô hình tài chính sinh lợi với rủi ro tương đối thấp. Nó tạo ra một cơ chế loại bỏ rủi ro trong việc thiết lập một cửa hàng mới cho một bên thứ hai, bởi vì việc thành lập doanh nghiệp ban đầu lúc nào cũng phải đối diện với nhiều rủi ro từ nghiên cứu và phát triển thị trường đền chất lượng sản phẩm… Mặt khác, nhượng quyền còn giúp giảm thiểu biến động trong doanh thu bằng cách gắn phần thưởng cho các nhà điều hành cửa hàng với doanh số thu được, nó sẽ ổn định hơn là gắn với lợi nhuận. Khó khăn Tiếp tục dựa theo nghiên cứu của Shane (2005) cho thấy bên cạnh các thuận lợi thì phương thức nhượng quyền cũng mang lại không ít khó khăn. Cụ thể, bốn bất lợi của loại hình nhượng quyền thương hiệu mà công ty đa quốc gia phải đối mặt là: mâu thuẫn về mục tiêu của bên nhượng quyền và bên được nhượng quyền; vấn đề chi phí giao dịch, cụ thể là vấn đề “đi xe không trả tiền” (free rider), chỉ xuất hiện ở loại hình nhượng quyền mà không xuất hiện ở loại hình sở hữu toàn phần; khó khăn trong việc can thiệp vào sự cách tân và đổi mới về cơ cấu của tổ chức được nhượng quyền; nhượng quyền cung cấp mức sinh lợi tuyệt đối thấp hơn so với các cửa hàng mà công ty đa quốc gia sở hữu toàn phần. Nhượng quyền gặp rắc rối trong mâu thuẫn giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền bởi vì thu nhập của công ty đa quốc gia sẽ là tiền bản quyền dựa trên tổng doanh số của hệ thống cửa hàng nhượng quyền, trong khi đó, phần tiền bản quyền lại là một chi phí mà bên nhận quyền phải gánh chịu. Công ty đa quốc gia tìm kiếm một mức giá thấp hơn cùng với doanh số cao hơn là bên nhượng quyền mong muốn. Do đó, họ luôn gia tăng mật độ các cửa hàng tại một vùng địa lý cho trước. Bên cạnh đó, bên nhận quyền cũng không muốn tham gia vào các hoạt động tập thể do bên nhượng quyền tổ chức, trừ khi các chính sách này mang lại lợi ích cho họ. Cuối cùng, giá trị của các cửa hàng trong hệ thống nhượng quyền sẽ giảm đi trong quá trình hoạt động vì họ luôn phải trả 12 một khoản tỷ lệ phí nhượng quyền cố định trong khi thị trường luôn có những biến động bất thường. Bởi vì công ty đa quốc gia và bên được nhượng quyền là các tổ chức độc lập về mặt pháp lý, do đó, hoạt động nhượng quyền phải gánh chịu nhiều loại chi phí giao dịch không xuất hiện ở hình thức sở hữu khác. Một số bên nhận quyền thường “đi xe không trả tiền” trước sự nổ lực của các bên nhận quyền khác trong toàn hệ thống nhượng quyền của công ty đa quốc gia trong việc bảo vệ tên thương hiệu. Hơn nữa, bên mua quyền lo lắng rằng công ty đa quốc gia sẽ thay đổi các điều khoản trong hợp đồng nhượng quyền và tác động mạnh đến các tài sản họ đã đầu tư, mua sắm hoặc trực tiếp đến lợi nhuận. Do đó, bên nhượng quyền thường đầu tư không đầy đủ cho hệ thống cửa hàng của mình. Cuối cùng, nhượng quyền thương hiệu là một phương thức nghèo nàn trong việc bảo vệ tài sản trí tuệ, chẳng hạn như bí mật kinh doanh. Bên nhận quyền dễ dàng bán đi những tài sản trí tuệ được đối tác chuyển giao. Nhượng quyền không phải là một phương thức tổ chức hiệu quả nếu công ty đa quốc gia đang trong thời kỳ cần nhiều sự cải cách và thay đổi thường xuyên. Việc sử dụng hợp đồng trong mối quan hệ quản lý giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền khiến cho nó rất khó để thay đổi chính sách, cấu trúc hoặc thông qua các sản phẩm, quá trình sản xuất không được biết đến hoặc không được đề cập trong hợp đồng đã ký kết. Hơn nữa, thông tin không đầy đủ về nhu cầu khách hàng nơi các cửa hàng nhượng quyền đang hoạt động cùng với quyền lực không hoàn toàn đối với bên nhận quyền khiến cho công ty đa quốc gia không thể có đầy đủ thông tin cần thiết để đưa ra những thay đổi đúng lúc và gặp phải nhiều khó khăn để bắt bên nhận quyền phải thực hiện những sự cải cách theo đúng như công ty đa quốc gia để ra sau khi họ được chuyển giao nhiều lợi ích