Như các bạn đã biết, trong những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thu hút các nguồn ngoại tệ, đặc biệt là USD. Đây là nguồn lực quan trọng giúp chúng ta giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng v.v. Nhưng điều gì cũng có hai mặt của nó. Chính lượng USD ồ ạt đổ vào Việt Nam nếu không được kiểm soát tốt cũng sẽ gây ra hậu quả to lớn, đó là tình trạng đô la hóa nền kinh tế. Vậy đô la hóa kinh tế là gi`? Nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu? Hiện nay tình hình đô la hóa ở Việt Nam như thế nào, nó có những ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực gì đến nền kinh tế của chúng ta? Và cần phải đưa ra những biện pháp gì để khắc phục đô la hóa mà không ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế. Tất cả những vấn đề này sẽ được chúng tôi trình bày trong bài thảo luận “ Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay”.
24 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3062 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tai chính quôc tế thực trạng đô la ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường : Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa: Ngân hàng – Tài chính
Bài thảo luận môn: Tài chính quốc tế
Đề tài: Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện: Nhóm 3-Ngân hàng 49A
1.Trần Kiều Oanh
2. Nguyễn Thị Minh Ngân
3. Đặng Thị Ngà
4. Trần Thị Đài Trang
5. Đoàn Thị Nguyệt
6. Dương Thị Hải Ngọc
7. Nguyễn Thị Thanh Hương
8. Hoàng Việt Anh
9. Vũ Mạnh Hùng
10. Trần Văn Chung
11.Vũ Thị Hồng Nhung
Lời mở đầu
Như các bạn đã biết, trong những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thu hút các nguồn ngoại tệ, đặc biệt là USD. Đây là nguồn lực quan trọng giúp chúng ta giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng v.v... Nhưng điều gì cũng có hai mặt của nó. Chính lượng USD ồ ạt đổ vào Việt Nam nếu không được kiểm soát tốt cũng sẽ gây ra hậu quả to lớn, đó là tình trạng đô la hóa nền kinh tế. Vậy đô la hóa kinh tế là gi`? Nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu? Hiện nay tình hình đô la hóa ở Việt Nam như thế nào, nó có những ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực gì đến nền kinh tế của chúng ta? Và cần phải đưa ra những biện pháp gì để khắc phục đô la hóa mà không ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế. Tất cả những vấn đề này sẽ được chúng tôi trình bày trong bài thảo luận “ Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay”.
Vì sự hạn chế về mặt thời gian, sự hiểu biết, và những yếu tố khách quan về nguồn thông tin nên bài thảo luận chúng tôi có thể chưa đầy đủ, chính xác, số liệu chưa sát thực tế. Mong các bạn góp ý, bổ sung để vấn đề của chúng ta được hiểu một cách trọn vẹn, giải quyết được thấu đáo hơn. Xin chân thành cám ơn!
Những Nội Dung Chính:
1. Khái niệm đô la hóa.
1.1. Khái niệm đô la hóa.
1.2. Các loại đô la hóa.
2.Nguồn gốc của đô la hóa.
3.Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam. 3.1. Thực trạng đô la hóa Việt Nam trong những giai đoạn trước đây.
3.2 Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Nguyên nhân tình trạng đô la hóa ở Việt Nam.
5. Những tác động của đô la hóa.
5.1 Những tác động tích cực.
5.2 Những tác động tiêu cực.
6.Giải pháp khắc phục tác động tiêu cực của đô la hóa.
6.1 Nâng cao vị thế của VND.
6.2. Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân.
6.3. Các giải pháp khác.
1. Khái niệm đô la hóa:
1.1. Khái niệm đô la hóa:
- Đô la hoá có thể hiểu là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần.
- Theo tiêu chí của IMF, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ.
- Một báo cáo của IMF cho thấy, trong số các nền kinh tế bị đôla hoá, có đến bảy quốc gia có số lượng USD trong khối tiền tệ vượt mức 50%, 12 quốc gia khác có số lượng USD chiếm từ 30% đến 50% khối tiền tệ quốc gia và phần lớn các nước còn lại có tỷ lệ từ 15 - 20% lượng USD trong khối tiền tệ của họ. ( Việt Nam nằm trong số này).
Một số trường hợp cụ thể như sau: Thổ Nhĩ Kỳ (46%), Argentina (44%), Nga, Hy Lạp, Ba Lan, Philippines (20%), Bolivia (82%)
1.2. Các loại đô la hóa:
- Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization)
- Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. - Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. - Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.
2. Nguồn gốc của đô la hóa:
Đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.• Chức năng làm phương tiện cất giữ.• Chức năng làm phương tiện thanh toán.
Hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lứu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá". - Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước. - Mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao
3. Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam:
3.1. Thực trạng đô la hóa Việt Nam trong những giai đoạn trước đây:
VN là một nền kinh tế đôla hóa một phần trong đó hệ thống tiền tệ sử dụng song song hai đồng tiền là VND và USD. Tuy nhiên, mức độ chính xác của đôla hóa rất khó xác định. Hiện tượng nền kinh tế VN sử dụng rộng rãi đồng USD trong giao dịch, buôn bán... bắt đầu được chú ý từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng USD
Đến năm 1992, tình trạng đôla hóa đã tăng mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD (xem biểu đồ). Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước VN đã cố gắng đảo ngược quá trình đôla hóa nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống 20% đầu năm 1997. Nhưng cũng trong năm này cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến đồng VND giảm giá trị và VN lại đứng trước sức ép tiếp tục chống đôla hóa. Cuối năm 2003, tỉ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng trên 23%.
Kết quả khảo sát trong các giai đoạn từ 1988 đến nay của Ban soạn thảo đề án cho thấy, tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam vẫn thấp và hiện tượng đôla hoá chưa được khắc phục một cách cơ bản. Những năm đầu mới mở cửa, mức độ đôla hoá tăng mạnh, tỷ lệ có lúc lên đến 41,2%. Giai đoạn từ sau khủng hoảng khu vực đến nay, sau một thời gian ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ này lại có dấu hiệu tăng lên, do đồng USD trên thị trường thế giới có tính hấp dẫn cao, trong khi chênh lệch lãi suất tiền gửi có lợi cho giữ ngoại tệ. Đáng chú ý là từ 2004, khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất USD trên thế giới tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm thì hiện tượng đôla hoá đang có biểu hiện gia tăng trở lại, đạt gần 22%.. cuối năm 2005 con số này khoảng 8 tỷ USD, một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hóa.
Biểu đồ tỉ lệ tiền gửi bằng USD/ tổng lượng tiền gủi(%)
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
- Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng USD so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tỷ lệ tiền gửi USD. Đặc biệt là tại Tp.HCM, chỉ chưa đầy 2 năm, dư nợ cho vay bằng USD cuối tháng 9/2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002. Đồng thời cũng tại Tp.HCM số tuyệt đối dư nợ cho vay bằng USD cao hơn hẳn các ngân hàng thương mại ở Hà Nội.
3.2 Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay:
- Năm 2008, theo ông Trần Bắc Hà - Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, tình trạng đô la hóa đang tăng , nhưng chưa đến mức trầm trọng. Tỷ lệ tiền gửi bằng USD trên tổng tiền gửi tại các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khoảng từ 20 - 25%. Tuy nhiên cho đến ngày 15-5-09, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh lên tiếng là Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đang ở trong tình thế khó khăn, và nếu tình trạng đô la hóa trở nên trầm trọng hơn thì các công cụ được sử dụng lâu nay trong chính sách quản lý tiền tệ sẽ trở nên vô hiệu.. Giữa lúc cơn bão kinh tế chưa lắng, Việt Nam được cảnh báo là mức độ "đô la hóa" không chính thức ngày càng cao. Theo nhiều nhà kinh tế, hiện tượng đồng USD được lưu hành nhiều hơn tiền đồng Việt Nam (VND) ngày càng trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam..
- Một số nguồn tin trong giới ngân hàng ước tính kiều hối chuyển về của năm 2007 đã đạt con số 8 tỷ USD Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD, hơn nữa việc Việt Nam miễn thị thực cho Việt kiều về nước, người Việt Nam ở nước ngoài và Việt kiều về nước bắt đầu gia tăng và sẽ tăng mạnh, mang theo một số lượng ngoại tệ tiền mặt rất lớn.
Bảng 2.1:
Năm
Kiều hối (Triệu USD)
1991
31
1995
285
1999
1.200
2000
1.757
2001
1.820
2002
2.154
2003
2.700
2004
3.200
2005
4.000
Nguồn: Tổng cục thống kê.
- Lượng đô la tồn tại trong các ngân hàng thương mại hiện nay cũng rất lớn. Hoạt động tiến hành nhận tiền gửi mua bán ngoại tệ ra nước ngoài( dễ gây rủi ro cho ngân hàng) và nhận tiền gửi cho vay mua bán trong nước( đầy rủi ro cho doanh nghiệp đi vay) của các ngân hàng này ngày càng tăng. Hơn nữa một số tập đoàn ngân hàng lớn trên thế giới trở thành cổ đông chiến lược, với số vốn đầu tư hàng trăm triệu đô la Mỹ vào một số NHTM cổ phần trong nước, cần chuyển đổi USD sang đồng Việt Nam. Điển hình như việc Eximbank thu được nguồn vốn 225 triệu USD từ việc tập đoàn ngân hàng Sumitomo của Nhật Bản mua cổ phần trở thành cổ đông chiến lược
Các NHTM có kinh nghiệm và truyền thống trong lĩnh vực thu mua kí gửi ngoại tệ cũng đạt tới con số 1 tỷ USD mỗi ngân hàng. Ngoài ra, tại các ngân hàng doanh số giao dịch bằng VND kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 35- 40% tổng doanh số giao dịch, giao dịch bằng ngoại tệ luôn chiếm tỉ trọng lớn.Tháng 9/2009 tổng doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đạt mức 60.720 tỷ VND và 2.167 triệu USD, bình quân đạt 12.143 tỷ VND và 433 triệu USD/ngày (tuần trước đó tổng doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đạt xấp xỉ 60.780 tỷ VND và 1.700 triệu USD, bình quân đạt 12.150 tỷ VND và 342 triệu USD/ngày).Trong khi đó lãi suất gửi tiết kiệm bằng USD l à vào khoảng 2,6% 1 năm( lãi suất gửi VND là 9%).Diễn biến tỷ giá đồng Việt Nam so với một số loại ngoại tệ chủ chốt ngày 18/9/2009 tại ngân hàng Eximbank
Tỷ giá ngoại tệ
Loại ngoại tệ
Mua TM
Mua CK
Giá bán
Đô-la Mỹ (USD 50-100)
17,835
17,835
17,835
Đô-la Mỹ (USD 5-20)
17,805
17,835
17,835
Đô-la Mỹ (Dưới 5 USD)
17,785
17,835
17,835
Bảng Anh
29,555
29,644
29,888
Đô-la Hồng Kông
2,030
2,337
2,363
Franc Pháp
3,665
-
-
Franc Thụy Sĩ
17,513
17,566
17,711
Mác Đức
12,756
-
-
Yên Nhật
198.41
199.01
200.64
Ðô-la Úc
15,715
15,762
15,891
Ðô-la Canada
16,837
16,888
17,026
Ðô-la Singapore
12,775
12,813
12,918
Đồng Euro
26,548
26,628
26,847
Ðô-la New Zealand
12,840
12,904
13,256
Doanh nghiệp cũng đã sử dụng USD nhiều hơn so với thời gian trước đây. Giá trị nhập khẩu của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 26,6 tỷ USD( giảm 41% so với cùng kì năm 2008). Mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất là máy móc thiết bị, sắt thép, xăng dầu, vải, điện tử, máy tính…Đây là nguyên liệu chính để các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh, sản xuất vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải cần lượng vốn USD khá lớn. Hơn nữa trong một thời gian dài, đồng USD là phương tiện thanh toán chủ yếu cho các giao dịch mua bán lớn như ôtô, xe gắn máy, các thiết bị máy móc cao cấp và có khi cả đất đai nhà cửa.
Thậm chí, giao dịch bán lẻ cũng ngả theo xu hướng này. Rất nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam tiến hành niêm yết giá bằng USD các mặt hàng của mình từ đồ điện tử, dân dụng, dịch vụ du lịch, khách sạn,…đến cả học phí học sinh cũng được tính bằng USD. Mặc dù bị nghiêm cấm nhưng phía DN thì cho rằng, do việc NK hàng hoá bằng ngoại tệ nên căn cứ theo đó để niêm yết giá, nếu niêm yết bằng tiền Việt sẽ phải thay đổi niêm yết liên tục trong ngày vì tỉ giá thay đổi, rất phiền phức. Thực ra, bản chất vấn đề là DN nắm đằng chuôi khi niêm yết giá bằng USD. Khi xảy ra biến động tỉ giá, thiệt hại đổ lên đầu NTD. Chính vì thế dù biết là vi phạm pháp luật, nhưng nhiều DN vẫn cứ làm.Một ví dụ điển hình là trong thời gian hiện nay rất nhiều loại bánh trung thu được niêm yết giá bằng USD và được chấp nhận thanh toán bằng cả USD và VND - Hiện nay, nhiều người dân tích trữ, gửi USD tại ngân hàng thay vì VND .Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy lượng ngoại tệ mà các tập đoàn kinh tế ký gửi đã tăng liên tiếp trong 4 tháng đầu năm nay, và số ngoại tệ ký gửi của cả nước tăng khoảng 3,35%. Tuy nhiên tâm lý thích dùng tiền mặt vẫn ăn sâu trong dân chúng Việt Nam, nên nếu hạn chế gửi ngoại tệ vào ngân hàng họ sẽ cất trữ tại nhà hoặc tạm thời chuyển qua gửi VND và sẵn sàng quay về cất trữ ngoại tệ bất cứ khi nào thuận lợi. Hơn nữa lượng đola cất giữ trong dân chúng thường nhỏ lẻ thiếu tập trung, chủ yếu có được từ việc mua bán hàng hóa với khách du lịch, người nước ngoài và nhận kiều hối từ nước ngoài. Vì thế dân chúng thường ưa chuộng các chợ đen để tiến hành đổi tiền. rất nhiều của hàng ngang nhiên tiến hành mua bán giao dịch dola như những cửa hàng vàng bạc trên phố Hà trung, Trần Nhân tông.
- Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Khách du lịch mang theo ngoại tệ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn tại các cở sở kinh doanh tư nhân. Khách du lịch cũng có hoạt động đổi tiền tại các quầy đổi tiền nhưng thông thường chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi do địa bàn, đường xá, họ thỏa thuận với người bán để thanh toán bằng đô la Mỹ.
Bảng 2.2:
Năm
1996
2000
2003
2004
2005
2010
(dự đoán)
Số lượng (triệu lượt người)
1,6
2,1
2,4
2,9
3,4
5,0
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Năm 2005 số vốn cam kết tài trợ (ODA) lên tới 3,44 tỷ USD, so với 2,7 tỷ USD năm 2003.
- Hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng trưởng khá, cũng thu hút một lượng ngoại tệ lớn vào nền kinh tế.
Bảng 2.3:
Năm
1992
1995
2000
2005
FDI/GDP (%)
2%
6.3%
12.7%
15%
Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư.
- Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng tăng nhanh, đánh dấu sự lớn mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Bảng 2.4:
Nguồn: Tổng cục thống kê.
- Ngoài ra, tình hình buôn lậu với khối lượng lớn của nước ta cũng là một trong những thành phần làm tăng lượng khó kiểm soat ngoai tệ ở trong nước. Việc chênh lệch tỉ giá giữa đồng nội địa và dola giữa các nước cũng góp phần gia tăng việc rửa tiền vận chuyển ra nước ngoài.
Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm... có thể thấy mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần.
4. Nguyên nhân tình trạng đô la hóa ở Việt Nam:
Bất cứ một nền kinh tế nào bị đôla hóa đều có căn nguyên từ phát từ người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong một thời gian dài và đồng nội tệ bị mất giá, điều này làm gia tăng phí bảo hiểm rủi ro đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ.
Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ốn định trong một thời gian dài, tỷ giá hối đoái giảm, làm gia tăng các chi phí bảo hiểm rủi ro đối với tài sản danh nghĩa bằng đồngnội tệ. Do vậy, công chúng chuyển các tài sản danh nghĩa sang một đồng tiền ổn định hơn hoặc các tài sản thực. Tại Việt Nam là vàng và kể từ năm 1990 là đô la Mỹ.
Việc phá giá VND vào năm 1985 và những năm 1997 – 1998 đã làm cho người giữ tiền đồng cảm thấy bị thiệt hại hơn so với giữ ngoại tệ.