Dân tộc là một vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.Theo quan điểm của Mac-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử.Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc,bộ lạc và tiếp đó là sự ra đời và phát triển của các Nhà nước dân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đọan tự do cạnh tranh sang giai đọan Đế quốc chủ nghĩa, các nước Đế quốc thực hiện chính sách xâm lược, cướp bóc, nô dịch các nước nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau CMT10 Nga, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, hệ thống thuộc địa của Chủ nghĩa đế quốc tan rã,nhiều Nhà nước thuộc địa trở thành các Quốc gia độc lập.
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I Lênin cũng đã đề cập 2 xu hướng phát triển:
+ Xu hướng 1: là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các Quốc gia độc lập
+ Xu hướng 2: việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất Quốc tế của Chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế, chính trị khoa học, v.v.
35 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2826 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu ôn thi môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1:Vì sao CN Mac-Lenin khẳng định: chỉ có CNXH mới giải quyết được vấn đề dân tộc?Trình bày tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc?Vì sao HCM khẳng định CN dân tộc là động lực lớn ở những nước đang đấu tranh giành chính quyền?
(Dân tộc là một vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.Theo quan điểm của Mac-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử.Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc,bộ lạc và tiếp đó là sự ra đời và phát triển của các Nhà nước dân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đọan tự do cạnh tranh sang giai đọan Đế quốc chủ nghĩa, các nước Đế quốc thực hiện chính sách xâm lược, cướp bóc, nô dịch các nước nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau CMT10 Nga, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, hệ thống thuộc địa của Chủ nghĩa đế quốc tan rã,nhiều Nhà nước thuộc địa trở thành các Quốc gia độc lập.
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I Lênin cũng đã đề cập 2 xu hướng phát triển:
+ Xu hướng 1: là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các Quốc gia độc lập
+ Xu hướng 2: việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất Quốc tế của Chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế, chính trị khoa học, v..v..
Xu hướng 1 chiếm ưu thế trong thời kì Tư bản chủ nghĩa mới phát triển, còn xu thế thứ 2 là đặc trưng của Chủ nghiã tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội XHCN, cả hai đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt. Tuy nhiên CNTB và Chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có Cách mạng vô sản và CNXH, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp bức dân tộc mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau.
(Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc trong thời đại Cách mạng vô sản được thể hiện trong mấy luận điểm cơ bản sau:
a) Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
Lịch sử VN là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam.Đối với một người dân mất nứơc, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. HCM đã từng nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do,Tổ quốc tôi được độc lập…” Trong quá trình tiếp cận chân lý, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên Ngôn Độc Lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1791 của Pháp. Từ đó Người đã khái quát lên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của dân tộc: Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra được quyền bìng đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
b) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH,Chủ nghĩa yêu nước và Chủ nghĩa Quốc tế.
Các cuộc vận động yêu nước, chống Pháp cuối thế kỉ 19, đầu 20 đều được dẫn dắt bởi ý thức hệ phong kiến hoặc tư sản.Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vẫn chủ yếu dừng lại ở Chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Đến Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được tiến hành dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mac-Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng CNXH, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp được đặt ra. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại Cách mạng vô sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mac và Angghen đã đề cập mối quan hệ giai cấp và dân tộc, Theo Mac và Anghen, trong thời đại hiện nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãng đạo mới thực hiện sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Bước sang thời đại Lênin, Chủ nghĩa đế quốc trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng và giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản. Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận được coi là học thuyết về cách mạng thuộc địa.Theo Lênin,cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa.Từ đó, Người đã bổ sung khẩu hiệu của Mac thành: “Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đòan kết lại”. Tuy nhiên xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của Cách mạng vô sản ở Châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho tòan thể giai cấp vô sản”
Nguyễn Ái Quốc_Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đang đi tìm đường cứu nước đến với Chủ nghĩa Mac-Lênin đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường Cách mạng vô sản tức là tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mac-Lênin, đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng theo con đường Cách mạng vô sản. Nhưng tiếp thu lý luận Mac-Lênin lại phải biết vận dụng sáng tạo lý luận ấy vào việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử xã hội. Vấn đề đặt ra phía trước cho các nước thuộc địa phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản mà trước hết là đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, có độc lập cho dân tộc,mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng XHCN. Hơn nữa sự nghiệp đấu tranh không cho phép ỷ lại ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở Châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa.
Từ thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra luận điểm:các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình đồng thời biết tranh thủ sự đòan kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để giành lại độc lập cho dân tộc rồi từ thắng lợi của cách mạng tiến lên làm cách mạng XHCN và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp Cách mạng vô sản thế giới.
( Qua đó có thề khẳng định: ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn dân tộc với giai cấp, Chủ nghĩa yêu nước với Chủ nghĩa Quốc tế, độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội.
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Khái niệm Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đây, như Mac nói: “không phải theo cái nghĩa theo tư sản hiểu” Chủ nghĩa dân tộc bản xứ mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây chính là Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngọai xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, nó khác về bản chất so với Chủ nghĩa dân tộc vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử phê phán. Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để,cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây.Trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây” bởi vì xã hội ở Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế,không giống các xã hội phương Tây thờiTrung cổ cũng như thời cận đại và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…” “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn,nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ bóc lột của họ là máy móc,…Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu.Điều đó không thể chối cãi được”. Mặc dù vậy, giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn: đều là nô lệ mất nước.Chính vì thế mà có cuộc nội dậy chống thuế năm 1908, có phong trào Đông Du và có việc Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917 v.v..
Từ sự phân tích đó Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Cũng vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản.Qua đó có thể thấy xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của Chủ nghĩa dân tộc với nghĩa là Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp Chủ nghĩa dân tộc với Chủ nghĩa quốc tế.
Câu 2: Dựa trên cơ sở nào Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải theo con đường cách mạng vô sản và phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo ?
Về mặt lý luận Lênin cho rằng: khi Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn Chủ nghĩa đế quốc tiến hành xâm chiếm thuộc địa thì vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa trở thành một bộ phận của Cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Tình hình nước ta vào cuối thế kỉ XIX , đầu thế kỉ XX các phong trào yêu nước đều thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành hệ thống Thế Giới. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành nhau trong việc xâu xé thuộc địa vừa liên kết nhau trong việc đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung một kẻ thù vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu bản chất của chủ nghĩa đế quốc, tình cảnh của các nước thuộc địa, các cuộc cách mạng lớn. Cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận được với chủ nghĩa Mac-Lênin và rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường Cách mạng vô sản”. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là một sự lựa chọn đúng đắn và sáng suốt của Hồ Chí Minh. Từ đầu những năm 20 của thế kỉ của thế kỉ XX Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ Chủ nghĩa đế quốc là con đỉa 2 vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả 2 cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như “ Một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản. Mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Quan trọng hơn người còn cho rằng “ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định muốn giải phóng dân tộc thành công “ Trước hết phải có Đảng cách mệnh … Đảng có vững cách mệnh mới thành công … Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt … Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định : Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin ,được vũ trang bằng chủ nghĩa mac Lênin.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Phan Chu Trinh đã nói “ Ngày nay muốn độc lập tự do phải có đoàn thể, nhưng ông chỉ nói mà chưa kịp làm. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang Phục hội, sau dự định cải tổ nó thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn nhưng ông cũng chưa kịp thực hiện đã bị bắt và giam lỏng tại Huế .
Dù thành lập hay chưa thì các Đảng kiểu đó không thể lãnh đạo Cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ lại không có cơ sở rộng rãi trong chúng nên sớm muộn gì cũng rơi vào tan rã.
Câu 3: Dựa trên cơ sở nào HCM cho rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc phải là sự nghiệp đúc kết của tòan dân, trên cơ sở liên minh công nông và phải thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng?
(Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “ là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một, hai ngừơi, vì vậy phải đòan kết tòan dân sĩ,công,nông, thương đều nhất chí chống lại cường quyền” Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công nông. Phải nhớ “ Công nông là người chủ cách mệnh.. Công nông là gốc cách mệnh”
Trong phạm vi của cách mảng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đáng đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai dành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân nên Nguyễn Ái Quốc chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước,đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của tòan dân tộc, đấu tranh dành độc lập tự do
Ngay từ đầu năm 1924, trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, NAQ đã đề cập khả năng một cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Đông Dương. Để có cơ hội thắng lợi, theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó:
+ phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi lọan…phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng Châu Âu
+ phải được nước Nga ủng hộ
+ phải trùng hợp với Cách mạng vô sản Pháp
+ phải gắn mật thiết với sự nghiệp vô sản thế giới
Tháng 5/1941 Hội nghị lần VIII Ban chấp hành TW khóa I do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương…mà mở đường cho một cuộc khởi nghĩa to lớn.
Câu 4: Dựa trên cơ sở nào Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động ,sáng tạo và có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
( Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động ,sáng tạo:
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc , chủ nghĩa thực dân ,cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt . Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn .Theo Hồ Chí Minh , phải làm cho các dân tộc thuộc địa hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại tạo một khối liên minh thuộc địa , là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác :”Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân” , Người đi đến luận điểm: “ Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em “.
Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực của dân tộc , tránh tư tưởng trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Người nói:”Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh .Trông vào sức mình…Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng , nhưng không được ỷ lại , không được ngồi mong chờ người khác .Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc:
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau , tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Nhận thức đúng vai trò , vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc , Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc .
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn ; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 5 : Vì sao trong điều kiện hiện nay để xây dựng và bảo vệ thành công CNXH thì phải khơi dậy mạnh mẽ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc , phải nhận thức và giải quyết các vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp công nhân .
Trước hết , theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH) bao gồm:
Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ đó , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng : Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân , do Đảng lãnh đạo , phải đem tài sức của dân làm lợi cho dân , nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho dân . Trong đó , nguồn lực con người là quan trọng nhất .
Và biện pháp để phát huy nhân tố con người là : khơi dậy mạnh mẽ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc , phải nhận thức và giải quyết các vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp công nhân .
Khơi dậy mạnh mẽ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc .
Chủ nghĩa yêu nước vốn là một tình cảm rất thiêng liêng, nó ăn sâu bám rễ trong lòng dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Lòng yêu nước của mỗi con người Việt Nam tạo thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Từ thời xa xưa cho đến hiện đại ,con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước , gắn kết cộng đồng , có ý chí kiên cường bất khuất , không chịu làm nô lệ , không cam phận hèn … Trong đấu tranh giải phóng dân tộc , nước ta đã từng đánh bại những thế lực xâm lược vô cùng hùng mạnh và trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ , tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ , biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song , đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ và Đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng miền nam , thống nhất Tổ quốc , đưa nước ta đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh : “ Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước . Đó là truyền thống quý báu của ta , chúng ta phải ra sức phát triển tinh thần yêu nước ấy , làm cho nó được thực hành vào công việc kháng chiến.”
Trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay , truyền thống quý báu ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ , biến nó thành nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách. Hồ Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây dựng lại đất nước. Người nhận định, nhân dân lao động là những người yêu nước chân chính, những người biểu hiện lợi ích dân tộc thật sự. Vì vậy, nhiệm