Tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay của VPBank

Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được coi là “ xương sống” của một nền kinh tế, “ xương sống” có vững chắc thì nền kinh tế mới phát triển mạnh và bền vững được. Việt Nam là một nước công nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới được bắt đầu từ Đại hội VI ( năm 1986 ), tuy nhiên hệ thống tài chính – ngân hàng của chúng ta thực sự chỉ phát triển trong một vài năm trở lại đây. Hoạt động ngân hàng mang tính đặc thù riêng như: chứa đựng nhiều rủi ro, có tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngân hàng. Một ngân hàng phá sản có thể làm sụp đổ toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do vậy hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng là vấn đề ưu tiên hàng đầu của các NHTM nói chung và của VPBank nói riêng. Cho vay là một hoạt động cơ bản của mỗi ngân hàng. Cho vay chiếm tới 60% giá trị tổng tài sản trong bảng cân đối, doanh thu lãi từ hoạt động cho vay cũng chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng nguồn thu từ tất cả các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận lớn song tiềm ẩn rủi ro rất cao. VPBank là một ngân hàng mới ra đời cách đây không lâu, hoạt động kinh doanh của VPBank có thời điểm gặp nhiều sóng gió do nợ xấu quá nhiều. Tuy nhiên với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng, VPBank đã vượt qua khó khăn và dần trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn mạnh nhất cả nước. Thương hiệu VPBank ngày càng được khẳng định. Kết quả trên là nhờ một phần rất quan trọng trong công tác hạn chế rủi ro cho vay ở VPBank. Rủi ro cho vay không phải xuất hiện chỉ ở một thời điểm nhất định. Nó là vấn đề tất yếu, khách quan, luôn tồn tại khi thực hiện hoạt động cho vay. Do vậy cần phải liên tục hoàn thiện các giải pháp để hạn chế rủi ro cho vay xuống mức thấp nhất. Chính vì lý do đó, sau thời gian được thực tập ở Phòng giao dịch VPBank Đội Cấn, đề tài: “ Tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay của VPBank “ được lựa chọn làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.

doc97 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1999 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay của VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được coi là “ xương sống” của một nền kinh tế, “ xương sống” có vững chắc thì nền kinh tế mới phát triển mạnh và bền vững được. Việt Nam là một nước công nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới được bắt đầu từ Đại hội VI ( năm 1986 ), tuy nhiên hệ thống tài chính – ngân hàng của chúng ta thực sự chỉ phát triển trong một vài năm trở lại đây. Hoạt động ngân hàng mang tính đặc thù riêng như: chứa đựng nhiều rủi ro, có tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngân hàng. Một ngân hàng phá sản có thể làm sụp đổ toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do vậy hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng là vấn đề ưu tiên hàng đầu của các NHTM nói chung và của VPBank nói riêng. Cho vay là một hoạt động cơ bản của mỗi ngân hàng. Cho vay chiếm tới 60% giá trị tổng tài sản trong bảng cân đối, doanh thu lãi từ hoạt động cho vay cũng chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng nguồn thu từ tất cả các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận lớn song tiềm ẩn rủi ro rất cao. VPBank là một ngân hàng mới ra đời cách đây không lâu, hoạt động kinh doanh của VPBank có thời điểm gặp nhiều sóng gió do nợ xấu quá nhiều. Tuy nhiên với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng, VPBank đã vượt qua khó khăn và dần trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn mạnh nhất cả nước. Thương hiệu VPBank ngày càng được khẳng định. Kết quả trên là nhờ một phần rất quan trọng trong công tác hạn chế rủi ro cho vay ở VPBank. Rủi ro cho vay không phải xuất hiện chỉ ở một thời điểm nhất định. Nó là vấn đề tất yếu, khách quan, luôn tồn tại khi thực hiện hoạt động cho vay. Do vậy cần phải liên tục hoàn thiện các giải pháp để hạn chế rủi ro cho vay xuống mức thấp nhất. Chính vì lý do đó, sau thời gian được thực tập ở Phòng giao dịch VPBank Đội Cấn, đề tài: “ Tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay của VPBank “ được lựa chọn làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay của các ngân hàng. Tìm hiểu về rủi ro cho vay và công tác hạn chế rủi ro trong cho vay của NHTM. Đồng thời đưa ra các chỉ tiêu đo lường hạn chế rủi ro trong cho vay ở ngân hàng và chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc hạn chế rủi ro trong cho vay. Nghiên cứu thực trạng hạn chế rủi ro trong cho vay của VPBank trong giai đoạn 2003 – 2008, từ đó thấy được những thành tựu cũng như điểm yếu của VPBank trong công tác này. Xuất phát từ nguyên nhân gây ra điểm yếu để đề ra các giải pháp cho VPBank, cũng như kiến nghị tới các chủ thể liên quan để tạo môi trường thuận lợi cho VPBank tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay của mình. Tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay ở VPBank chính là mục đích nghiên cứu chủ yếu của đề tài Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: “ Tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay ở VPBank “ chính là: Hạn chế rủi ro trong cho vay ở VPBank. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp diễn dịch quy nạp, phương pháp lịch sử và logic, đặc biệt là phương pháp thống kê Kết cấu nội dung của khoá luận Khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hạn chế rủi ro trong cho vay của NHTM Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro trong cho vay của Vpank Chương 3: Biện pháp tăng cường hạn chế rủi ro trong cho vay của VPBank CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Hoạt động cho vay của NHTM Khái quát ngân hàng thương mại Khái niệm NHTM Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là một kênh dẫn vốn từ những nơi thừa vốn và không có nhu cầu đầu tư trong hiện tại sang những nơi thiếu vốn và đang có nhu cầu đầu tư. Vốn đựơc phân bổ lại giữa các chủ thể kinh tế, giữa các khu vực khác nhau. Thông qua các NHTM, những người cần vốn, những nơi cần đầu tư sản xuất, kinh doanh, phục vụ đời sống được đáp ứng. Nguồn lực của nền kinh tế nhờ đó được khai thác triệt để hơn, có hiệu quả tốt hơn. Với chức năng quan trọng này, NHTM góp phần đem lại lợi ích cho cả người gửi tiền, người đi vay, cho chính NHTM và xa hơn là cho cả sự phát triển của nền kinh tế. Đây là chức năng quan trọng nhất do vậy hoạt động chủ yếu của NHTM: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Huy động, cho vay là hai hoạt động nòng cốt đem lại doanh thu từ lãi vay, chi phí lãi vay lớn nhất trong tổng doanh thu, chi phí của NHTM. Có thể tiếp cận khái niệm NHTM theo nhiều khía cạnh khác nhau. Nếu tiếp cận ngân hàng trên phương diện các dịch vụ thì có thể đưa ra định nghĩa: Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính quan trọng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng được quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 và luật sửa đổi bổ xung một số điều của luật các tổ chức tín dụng ngày 15/06/2004, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng bao gồm hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Phân theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm: Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động cơ bản của NHTM Ngân hàng thương mại ra đời là cần thiết khách quan trong nền kinh tế. Sự phát triển của các ngân hàng thương mại trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế. Ngược lại sự phát triển kinh tế đòi hỏi các ngân hàng ngày càng phải đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ của mình. Thành công của ngân hàng là xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện một cách có hiệu quả các dịch vụ đó. Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng được cung cấp đầu tiên đó là trao đổi ngoại tệ - một ngân hàng sẽ đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ, chẳng hạn bán VND lấy USD. Sự trao đổi này là rất thuận tiện với các du khách vì họ sẽ có trong tay đồng nội tệ của nước họ đến du lịch. Hình thức trao đổi tiền tệ cho du khách là một hình thức kinh doanh nhỏ, lẻ và ít rủi ro. Ngày nay các ngân hàng còn thực hiện kinh doanh ngoại tệ thuần túy. Hoạt động này đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng dự báo sự biến động của tỷ giá tốt. Nếu dự đoán tốt thì ngân hàng sẽ thu được lợi rất cao và ngược lại, do vậy kinh doanh ngoại tệ thuần túy chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với dịch vụ trao đổi ngoại tệ cho khách du lịch. Nhận tiền gửi Ngân hàng là một trong những trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, là một kênh dẫn vốn từ nơi thừa vốn và chưa có nhu cầu đầu tư trong hiện tại sang nơi thiếu vốn và đang có nhu cầu đầu tư trong hiện tại. Lịch sử cho thấy ban đầu các ngân hàng chỉ sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu của mình để đáp ứng nhu cầu vay của các chủ thể. Tuy nhiên nhu cầu vay càng ngày càng lớn do vậy các ngân hàng phải mở rộng nguồn vốn của mình bằng cách huy động thêm vốn từ bên ngoài. Một trong những nguồn quan trọng nhất là nhận tiền gửi. Cuộc cạnh tranh trong việc tìm nguồn tiền gửi buộc các ngân hàng phải trả lãi cho khoản tiền gửi như một phần thưởng cho khách hàng sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng hiện tại của họ thay vì thu phí giữ hộ tiền như thời kì sơ khai của ngành ngân hàng. Các khoản tiền gửi có thể phân làm ba loại: Tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm ( tiết kiệm không kì hạn, tiết kiệm có kì hạn ), tiền gửi có kì hạn. Tiêu chí phân loại các khoản tiền gửi này là dựa vào tính ổn định của các nguồn này. Nguồn nào có tính ổn định càng cao thì ngân hàng càng phải trả lãi cao cho nguồn đó, ngược lại. Theo đó, nguồn tiền gửi thanh toán có lãi thấp nhất, tiếp đó đến nguồn tiền gửi tiết kiệm và cuối cùng là nguồn tiền gửi có kì hạn. Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá Ngay từ thời kì đầu các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản phải thu của họ cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Ngày nay hầu hết các ngân hàng đều cung cấp dịch vụ chiết khấu thương phiếu cho khách hàng. Ngoài phí chiết khấu mà ngân hàng được hưởng thì ngân hàng còn được hưởng lãi của thương phiếu đó trong thời gian còn lại mà ngân hàng nắm giữ. Hình thức chiết khấu được coi là một hình thức cấp tín dụng ngắn hạn. Hình thức này có nhiều đặc điểm khác với cho vay: Thứ nhất, không cần tài sản bảo đảm. Thứ hai, ngân hàng thu phí hoa hồng và lãi trước bằng cách khấu trừ vào giá. Thứ ba, quy trình cấp tín dụng nhanh chóng, đơn giản hơn so với cho vay. Chiết khấu được phân làm hai loại: Chiết khấu truy đòi và chiết khấu miễn truy đòi. Hình thức chiết khấu truy đòi ngân hàng sẽ gặp ít rủi ro hơn so với chiết khấu miễn truy đòi. Đến hạn thanh toán thương phiếu, giấy tờ có giá ngân hàng sẽ thu lại được toàn bộ mệnh giá từ người phát hành, nếu người phát hành không có khả năng thanh toán hoặc từ chối thanh toán thì ngân hàng sẽ có quyền đòi khách hàng nếu đó là chiết khấu truy đòi.Ngược lại nếu là chiết khấu miễn truy đòi thì ngân hàng sẽ bị thiệt hại lớn. Do vậy trong thực tế các ngân hàng thường cung cấp dịch vụ chiết khấu truy đòi. Cho vay Cho vay thương mại Nhu cầu vốn để tài trợ cho các dự án sản xuất hay các phương án kinh doanh có thể tài trợ thông qua việc chiết khấu thương phiếu. Tuy nhiên không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có sẵn thương phiếu để chiết khấu. Nhu cầu vay vốn này làm nảy sinh ra dịch vụ cho vay thương mại của các ngân hàng. Cho vay thương mại có độ rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường đòi hỏi người đi vay phải có tài sản đảm bảo, phải có phương án sản xuất có hiệu quả. Cho vay thương mại chiếm tỉ trọng khá cao trong tổng tài sản của ngân hàng và đem lại nguồn thu từ lãi lớn. Cho vay tiêu dùng Thời kì đầu các ngân hàng không hướng nhiều đến khách hàng cá nhân mà chủ yếu tập trung vào khách hàng doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu vì khách hàng doanh nghiệp thường có nhu cầu vay lớn, khả năng thu hồi vốn nhanh. Với các cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu vay tiêu dùng, quy mô vay thường nhỏ, rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng có khả năng sinh lời thấp. Tuy nhiên ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế, hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển. Ngày càng có nhiều ngân hàng mới được thành lập, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng do đó càng gay gắt hơn. Các ngân hàng nhỏ, thị phần hẹp buộc phải hướng đến khách hàng cá nhân như một khách hàng tiềm năng. Tài trợ cho các dự án Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này cao nên chúng thường được thực hiện thông qua một công ty đầu tư, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng. Bảo quản vật có giá Ngay từ thời trung cổ các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp dẫn là giấy biên nhận ngân hàng giao cho khách hàng khi khách hàng gửi vàng. Giấy biên nhận này có thể sử dụng như tiền – dùng để thanh toán cho các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay vì sử dụng bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi vàng vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay việc bảo quản vật có giá tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản cho ngân hàng. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Các ngân hàng không chỉ nhận tiền gửi của khách hàng mà còn thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng nếu khách hàng có nhu cầu. Thanh toán qua ngân hàng là một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hình thức thanh toán này đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng, nó ngày càng phát triển trong xã hội hiện đại ngày nay. Lợi ích của thanh toán qua ngân hàng đó là đảm bảo tính an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, tiết kiệm chi phí lưu thông. Thay vì đến ngân hàng rút tiền sau đó thanh toán cho bên cung cấp, các khách hàng chỉ cần mở một tài khoản giao dịch tại ngân hàng và viết giấy chi trả cho bên cung cấp, bên cung cấp mang giấy đến ngân hàng sẽ được nhận tiền. Khi các ngân hàng ngày càng mở rộng mạng lưới chi nhánh thì thanh toán qua ngân hàng ngày càng được ưa chuộng hơn so với thanh toán bằng tiền mặt. Hình thức thanh toán qua ngân hàng đầu tiên là Sec, sau đó phát triển thêm các loại hình thanh toán khác như: Ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán. Quản lý ngân quỹ Ngân hàng thực hiện huy động vốn và tiến hành đầu tư tiền thông qua việc cho vay, chiết khấu…do vậy ngân hàng có mối liên hệ với rất nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Hơn nữa ngân hàng có đội ngũ nhân viên làm việc rất chuyên nghiệp, có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực quản lý ngân quỹ. Chính vì vậy mà ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý ngân quỹ cho khách hàng, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu, chi và tiến hành đầu tư khoản thặng dư tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần đến tiền mặt để thanh toán. Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn, cấp bách, thu không đủ chi nên các chính phủ thường tìm cách tiếp cận với các khoản cho vay của các ngân hàng. Ngân hàng trung ương ra đời, thông qua đó chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được những khoản tín dụng lớn. Ngày nay chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát ngân hàng. Các ngân hàng để được cấp phép hoạt động đều phải cam kết thực hiện một mức độ nào đó các chính sách của chính phủ, và chịu sự can thiệp của chính phủ thông qua chính sách tài khóa hay chính sách tiền tệ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ. Bảo lãnh Ngân hàng là một tổ chức nhận tiền gửi lớn nhất trong nền kinh tế do vậy ngân hàng luôn nắm giữ một lượng tiền rất lớn. Ngân hàng sử dụng số tiền đó để đầu tư kinh doanh vào các tài sản sinh lời như đầu tư giấy tờ có giá, cho vay, chiết khấu… và một phần tiền đó còn dùng vào việc bảo lãnh. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên được bảo lãnh trong phạm vi số tiền như trong hợp đồng nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình. Ngân hàng không bảo lãnh bên đối tác có thực hiện được nghĩa vụ của mình hay không mà chỉ đảm bảo sự thanh toán trong phạm vi số tiền như trong hợp đồng bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng là sự đảm bảo cho bên thụ hưởng trong trường hợp những hoạt động được chỉ rõ trong hợp đồng không được thực hiện vì bất kì một lý do nào thì bên thụ hưởng sẽ được quyền hưởng tiền đền bù. Lợi ích mà bảo lãnh đem đến đó là giảm thiểu rủi ro và khách hàng không phải thanh toán ngay cho bên đối tác vì đã có bảo lãnh của ngân hàng do đó có cơ hội trì hoãn việc thanh toán và làm tăng tài sản lưu động hiện có. Ngày nay dịch vụ bảo lãnh mà các ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng: Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh nhận hàng… Cho thuê các thiết bị trung và dài hạn ( Leasing ) Không chỉ có các công ty chuyên cho thuê các thiết bị trung và dài hạn mà ngân hàng cũng cung cấp dịch vụ này. Hình thức này đem lại lợi ích cho khách hàng và cả ngân hàng. Khách hàng thay vì phải bỏ số tiền lớn ra mua thiết bị để sử dụng thì có thể đi thuê và trả dần số tiền thuê đó trong toàn bộ thời gian thuê. Hơn nữa khách hàng cũng không cần có tài sản đảm bảo như hình thức đi vay để tài trợ cho mua các tài sản. Khách hàng có thể nhanh chóng đổi mới trang thiết bị hơn. Cuối hợp đồng khách hàng cũng có thể mua thiết bị đó ( hợp đồng thuê mua), nếu khách hàng không có nhu cầu mua thì ngân hàng sẽ mua lại. Đối với các ngân hàng ngoài việc đa dạng hóa các dịch vụ. thu được lãi thì còn có một lợi thế nữa giảm thuế thu nhập phải nộp. Tài sản cho thuê dài hạn vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng vẫn được phép khấu hao, khấu hao là một chi phí hợp lý được khấu trừ khi tính thuế thu nhập do vậy ngân hàng giảm được thuế thu nhập phải nộp. Khi tham gia vào hợp đồng thuê thiết bị trung và dài hạn này thì khách hàng phải chịu toàn bộ các chi phí sửa chữa và thuế có liên quan. Một hợp đồng cho thuê các thiết bị trung và dài hạn phải đảm bảo tối thiểu một trong các yêu cầu sau: Thời gian thuê phải lớn hơn 75% thời gian hữu ích của tài sản Hợp đồng thuê phải có thỏa thuận một quyền chọn mua tài sản với giá trị thấp hơn giá thị trường của tài sản đó. Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho người đi thuê vào cuối thời gian thuê Giá trị hiện tại cho các khoản thanh toán của hợp đồng thuê tài sản này phải lớn hơn 90% tổng chi phí ban đầu của tài sản. Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi các ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Khi thị trường chứng khoán phát triển nhu cầu đầu tư của khách hàng gia tăng. Các ngân hàng luôn phấn đấu có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Đây là lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong trường hợp được phép một số ngân hàng thành lập ra công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng nhưng hạch toán độc lập ( ngân hàng đa năng một phần ), cũng có những nước cho phép ngân hàng được phép kinh doanh chứng khoán bên cạnh kinh doanh tiền tệ ( ngân hàng đa năng toàn phần ). Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Một số ngân hàng trên thế giới trong vài năm trở lại đây đã cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hoặc bị tàn phế. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận được một phần thu nhập từ các dịch vụ đó. Cung cấp các dịch vụ đại lý Dù phát triển đến đâu thì các ngân hàng cũng không thể mở các chi nhánh và đại lý tại mọi địa điểm. Do vậy các ngân hàng thường kí kết các thỏa thuận trong đó một ngân hàng nhận làm đại lý cung ứng các dịch vụ của ngân hàng kia. Ngân hàng làm đại lý sẽ được hưởng phí hoa hồng dựa trên số lượng tiền của các dịch vụ nhận đại lý đó. Một số dịch vụ đại lý như: Thanh toán hộ, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay ra đời ngay từ khi xuất hiện hình thái ban đầu của NHTM. Dư nợ cho vay thể hiện trên BCĐKT của NHTM luôn chiếm tỷ 60 % tổng tài sản. Doanh thu từ lãi vay thể hiện trên BCKQKD cũng chiếm tỷ trọng 40 % so với tổng doanh thu từ tất cả các nguồn khác nhau. Cùng với sự phát tr