Hiện nay xu thế toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Những năm gần đây suy thoái kinh tế bắt đầu xuất hiện và dần lan rộng ra các quốc gia trên thế giới, nó ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế toàn cầu khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao, thu nhập của người dân bị giảm sút khiến họ cắt giảm chi tiêu, chỉ tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu. Người dân tiêu dùng thận trọng hơn và yêu cầu đòi hỏi chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng ngày càng khắt khe. Xu hướng cạnh cạnh về giá chuyển dần sang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Vì vậy chất lượng sản phẩm được coi là yếu tố nòng cốt, quyết định sự sống còn của của các doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai. Do đó, đầu tư cho chất lượng sản phẩm là điều mà các doanh nghiệp phải luôn chú trọng, nhận thức đó là sự đầu tư cho phát triển bền vững.
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đang ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực theo cơ chế thị trường. Hơn nữa, với việc gia nhập vào các tổ chức quốc tế về kinh tế cũng như các lĩnh vực khác theo xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá như: Việt Nam gia nhập APEC năm 1998; gia nhập ASEAN năm 2005; và trở thành thành viên 150 của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) năm 2006, những sự kiện này là những bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước nói chung và của nền kinh tế Việt Nam nói riêng, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải tận dụng những nguồn lực sẵn có , cần phải biết cách tiếp thu từ các nước khác nhưng phải có chọn lọc những tiến bộ khoa học kỹ thuật, để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của người tiêu dùng trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm, doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
57 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1921 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường hiệu lực quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
Tổng quan nghiên cứu vấn đề “Tăng cường hiệu lực quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC.”
Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay xu thế toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Những năm gần đây suy thoái kinh tế bắt đầu xuất hiện và dần lan rộng ra các quốc gia trên thế giới, nó ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế toàn cầu khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao, thu nhập của người dân bị giảm sút khiến họ cắt giảm chi tiêu, chỉ tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu. Người dân tiêu dùng thận trọng hơn và yêu cầu đòi hỏi chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng ngày càng khắt khe. Xu hướng cạnh cạnh về giá chuyển dần sang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Vì vậy chất lượng sản phẩm được coi là yếu tố nòng cốt, quyết định sự sống còn của của các doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai. Do đó, đầu tư cho chất lượng sản phẩm là điều mà các doanh nghiệp phải luôn chú trọng, nhận thức đó là sự đầu tư cho phát triển bền vững.
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đang ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực theo cơ chế thị trường. Hơn nữa, với việc gia nhập vào các tổ chức quốc tế về kinh tế cũng như các lĩnh vực khác theo xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá như: Việt Nam gia nhập APEC năm 1998; gia nhập ASEAN năm 2005; và trở thành thành viên 150 của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) năm 2006, những sự kiện này là những bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước nói chung và của nền kinh tế Việt Nam nói riêng, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải tận dụng những nguồn lực sẵn có , cần phải biết cách tiếp thu từ các nước khác nhưng phải có chọn lọc những tiến bộ khoa học kỹ thuật, để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của người tiêu dùng trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm, doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Nhận thức sâu sắc về vấn đề trên, các doanh nghiệp đã xác định cho mình các chiến lược, chính sách và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để tăng năng lực cạnh tranh, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hoà chung dòng chảy đó,Công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC cũng không phải là một ngoại lệ.Ban lãnh đạo công ty đã đưa ra các chính sách chất lượng và quản trị chất hợp lý luôn coi chất lượng sản phẩm là trên hết, chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với công ty, coi đây cũng là một trong những mục tiêu cơ bản trong chiến lược phát triển của mình.
Được hình thành từ năm 2005, trụ sở : Tầng 27-Toà nhà 101 Láng Hạ- Đống Đa- Hà Nội, Công ty chuyên kinh doanh nhiều loại hàng hóa khác nhau, nhưng trong đó sản phẩm thiết bị điện công nghiệp là một trong những sản phẩm chủ chốt, mang lại doanh thu lớn cho công ty, vì vậy đảm bảo chất lượng của sản phẩm này trở nên quan trọng, đặc biệt các công tác quản trị chất lượng các sản phẩm này được các lãnh đạo trong công ty quan tâm hàng đầu, nó có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển của công ty trong thời gian tới.
Qua nghiên cứu tìm hiểu và phỏng vấn chuyên sâu tại Công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC em thấy chất lượng sản phẩm là yếu tố mà doanh nghiệp luôn quan tâm và đầu tư. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập trong việc quản trị chất lượng sản phẩm với một số mặt hàng. Điển hình là sản phẩm thiết bị điện. Chính vì những nguyên nhân cũng như thực trạng trên đây của công ty mà vấn đề chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty trở nên cấp bách và cần thiết trong điều kiện hiện nay.
Chúng ta đều thấy vấn đề nhạy cảm này đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu khai thác với nhiều giác độ khác nhau từ xa xưa đến nay, song không vì thế mà nó trở nên nguội lạnh mà ngược lại nó luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Có lẽ không ai trong xã hội lại bàng quan trước "điểm nóng" -Chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm.
1.2. Vấn đề nghiên cứu của đề tài
Là một sinh viên chuyên ngành marketing kinh doanh nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng và quản trị chất lượng, với kiến thức đã được đào tạo trong nhà trường xuất phát từ thực trạng về chất lượng và quản trị chất lượng của Công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC nên em chọn đề tài : “ Tăng cường hiệu lực quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC.”
1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm.
Phân tích thực trạng về chất lượng và quản trị chất lượng của công ty đặc biệt đối với mặt hàng thiết bị điện công nghiệp.
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC.
1.4. Phạm vị nghiên cứu
Công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau trong đó sản phẩm thịết bị điện công nghiệp là một trong những mặt hàng chủ chốt của công ty, mang lại doanh thu lớn cho công ty. Do đó giới hạn nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào sản phẩm Thiết bị điện công nghiệp đã được xác lập trong tên trong tên của luận văn nêu ra ở trên.
1.5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời cảm ơn, mục lục, các danh mục bảng biểu và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 4 chương lớn:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu vấn đề “Tăng cường hiệu lực quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC ”.
Chương 2: Một số lý luận cơ bản về chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và thực trạng về chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC.
Chương 4: Kết quả thực trạng kinh doanh của công ty và một số giải pháp tăng cường hiệu lực quản trị chất lượng sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC.
CHƯƠNG II
Một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng và quản trị chất lượng
2.1. Khái niệm về sản phẩm và chất lượng sản phẩm
2.1.1. Vai trò của chất lượng sản phẩm trong thời kỳ hội nhập
Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Sản phẩm, dịch vụ muốn có tính cạnh tranh cao thì chúng phải thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, của xã hội về mọi mặt một cách kinh tế nhất (sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ). Với chính sách mở cửa, tự do thương mại, các nhà sản xuất kinh doanh muốn tồn tại thì sản phẩm, dịch vụ của họ phải có tính cạnh tranh cao, nghĩa là doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt.
Chất lượng sản phẩm làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp vì:
(1) Tạo ra sức hấp dẫn thu hút người mua:
Mỗi sản phẩm có rất nhiều các thuộc tính chất lượng khác nhau. Các thuộc tính này được coi là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiêp. Khách hàng quyết định lựa chọn mua hàng vào những sản phẩm có thuộc tính phù hợp với sở thích, nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng của mình. Họ so sánh các sản phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có những thuộc tính kinh tế - kỹ thuật thỏa mãn những mong đợi của họ ở mức cao nhất. Bởi vậy sản phẩm có các thuộc tính chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
(2) Nâng cao vị thế, sự phát triển lâu dài cho doanh nghiêp trện thị trường:
Khi chất lượng sản phẩm cao, ổn định đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ tạo ra một biểu tượng tốt, tạo ra niềm tin cho khách hàng vào thương hiệu của sản phẩm. Nhờ đó uy tín và danh tếng của doanh nghiệp được nâng cao, có tác động to lớn đến quyết định lựa chọn mua hàng của khách hàng.
2.1.2. Khái niệm về sản phẩm và chất lượng sản phẩm
2.1.2.1. Khái niệm về sản phẩm.
Theo ISO 9000: 2000: Sản phẩm được định nghĩa là “Kết quả của các hoạt động hay các quá trình”. Như vậy, sản phẩm được tạo ra từ tất cả mọi hoạt động bao gồm cả những hoạt động sản xuất ra sản phẩm vật chất cụ thể và các dịch vụ.
Sản phẩm được hình thành từ các thuộc tính vật chất hữu hình và vô hình, tương ứng với 2 bộ phận cấu thành là phần cứng (Hard ware) và phần mềm (soft ware) của sản phẩm.
Phần cứng (Hữu hình) : Nói lên công dụng đích thực của sản phẩm.
Phần mềm (Vô hình) : Xuất hiện khi có tiêu thụ mang thuộc tính thụ cảm, nó có ý nghĩa rất lớn.
Cả hai phần trên tạo cho sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
2.1.2.2. Khái niệm về chất lượng.
Chất lượng là một khái niệm trừu tượng vừa cụ thể, nhưng cũng rất khó để định nghĩa đúng và đầy đủ về chất lượng bởi từ các góc độ khác nhau như: Doanh nghiệp,người quản lý chuyên gia, người công nhân, hay từ góc nhìn từ người sản xuất và từ người tiêu dùng…mà đưa ra các khái niệm khác nhau.
Trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000, phần thuật ngữ ISO 9000 đã đưa ra định nghĩa chất lượng: Chất lượng là mức độ thoả mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu cầu”. Yêu cầu có nghĩa là những nhu cầu hay mong đợi được nêu ra hay tiềm ẩn.
Quan niệm của nhà sản xuất: Chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách đã được xác định trước.
Quan niệm của người bán hàng: Chất lượng là hàng bán hết, có khách hàng thường xuyên.
Quan niệm của người tiêu dùng: Chất lượng là sự phù hợp với mong muốn của họ. Chất lượng sản phẩm/ dịch vụ phải thể hiện các khía cạnh sau:
Thể hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó.
Thể hiện cùng với chi phí.
Gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể.
2.1.2.3. Khái niệm chất lượng sản phẩm.
Theo ISO 9001:2000: “ Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thực hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng, tên gọi của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”.
Cục Đo Lường Chất Lượng Việt Nam đưa ra khái niệm: “ Chất lựơng sản phẩm của một sản phẩm là một tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra và những nhu cầu tiềm ẩn” (Theo TCVN 5814 – 1994).
Tóm lại: Chất lượng sản phẩm là sự kết hợp giữa đặc tính nội tại khách quan của sản phẩm, các chủ quan bên ngoài, là sự phối hợp với khách hàng. Vì vậy những khái niệm hiện nay được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãi.
2.1.3. Thuộc tính chất lượng sản phẩm.
Mỗi sản phẩm đều cấu thành bởi rất nhiều các thuộc tính có giá trị sử dụng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Các thuộc tính này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo ra một mức độ chất lượng nhất định của sản phẩm. Chât lượng sản phẩm gồm 8 thuộc tính cơ bản sau đây:
Các thuộc tính kỹ thuật: phản ánh công dụng, chức năng của sản phẩm.
Các yếu tố thẩm mỹ: đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức, dáng vẻ, kết cấu, kích thước, sự hoàn thiện, tính cân đối, màu sắc, trang trí, tính thời trang.
Tuổi thọ của sản phẩm: đặc trưng cho tính chất của sản phẩm giữ được khả năng làm việc bình thường theo đúng tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian nhất định trên cơ sở đảm bảo đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ bảo dưỡng quy định.
Độ tin cậy của sản phẩm: phản ánh chất lượng của sản phẩm và đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng duy trì và phát triển thị trường của mình.
Độ an toàn của sản phẩm: những chỉ tiêu an toàn trong sử dụng, vận hành sản phẩm, an toàn đối với sức khỏe người tiêu dùng và môi trường.
Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm: khi đưa ra sản phẩm của mình các nhà sản xuất bắt buộc phải tuân thủ điều này.
Tính tiện dụng: phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, bảo quản, dễ sử dụng của sản phẩm và khả năng thay thế khi có những bộ phận hư hỏng.
Tính kinh tế của sản phẩm: là yếu tố quan trọng với các sản phẩm khi sử dụng có tiêu hao nguyên liệu, năng lượng. Tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng trở thành một trong những yếu tố quan trọng phản ánh chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm.
Như vậy chất lượng sản phẩm được tạo ra bởi toàn bộ thuộc tính của sản phẩm có khả năng thỏa mãn nhu cầu vật chất hữu hình và vô hình của người tiêu dùng.
Sản phẩm thiết bị điện công nghiệp của công ty cổ phần kỹ thuật năng lượng và môi trường EEC đều có tiêu chuẩn như các đặc tính trên như tiêu chuẩn về kỹ thuật, mức độ an toàn, độ tiện dụng của sản phẩm…
2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
Nhóm yếu tố bên ngoài (vĩ mô).
Tình hình phát triển kinh tế thế giới:
Xu hướng toàn cầu hoá với sự tham gia hội nhập của doanh nghiệp vào nền kinh tế thế giới của mọi quốc gia, đẩy mạnh tự do thương mại quốc tế, chất lượng đã trở thành ngôn ngữ phổ biến chung trên toàn cầu, nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải quan tâm tới vấn đề chất lượng
Tình hình thị trường:
Đây là nhân tố quan trọng nhất, tạo lực hút định hướng cho sự phát triển chất lượng sản phẩm. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng và thay đổi nhanh chóng, thì hoàn thiện chất lượng để đáp ứng với những nhu cầu này là tất yếu và cần thiết.
Trình độ tiến bộ khoa học - công nghệ:
Tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra khả năng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Tạo phương tiện điều tra, nghiên cứu khoa học chính xác hơn, xác định đúng đắn nhu cầu và biến đổi nhu cầu thành đặc điểm sản phẩm chính xác hơn nhờ trang bị những phương tiện đo lường, dự báo, thí nghiệm, thiết kế tốt hơn, hiện đại hơn, làm xuất hiện các nguồn nguyên liệu mới tốt hơn, rẻ hơn nguồn nguyên liệu sẵn có, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng mức thoả mãn khách hàng.
Cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia:
Môi trường pháp lý với những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế có tác động trực tiếp và to lớn đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Một cơ chế phù hợp sẽ kích thích các doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Các yêu cầu về văn hoá, xã hội:
Những yêu cầu về văn hoá, đạo đức, xã hội và tập tục truyền thống, thói quen tiêu dùng có ảnh hưởng trực tiếp tới các thuộc tính chất lượng của sản phẩm, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp thông qua các qui định bắt buộc mỗi sản phẩm phải thoả mãn những đòi hỏi phù hợp với truyền thống, văn hoá, đạo đức, xã hội của các cộng đồng.
Nhóm yếu tố bên trong (vi mô).
Bốn yếu tố trong tổ chức được biểu thị bằng qui tắc 4M là:
Men: Con người, lực lượng lao động (yếu tố quan trọng nhất). Nhóm yếu tố con người bao gồm cán bộ lãnh đạo các cấp, cán bộ công nhân viên trong đơn vị và người tiêu dùng, quyết định lớn đến chất lượng sản phẩm.Trong quá trình sử dụng chất lượng sản phẩm được duy trì và có hiệu quả như thế nào lại phụ thuộc vào người sử dụng với ý thức trách nhiệm và hiểu biết.
Methods or Measure: Phương pháp quản lý, đo lường: Có nguyên vật liệu tốt, có kỹ thuật - công nghệ - thiết bị hiện đại, nhưng không biết tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh thì không thể nâng cao chất lượng sản phẩm.
Machines: Khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị: Nếu yếu tố nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản quyết định tính chất và chất lượng của sản phẩm thì yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị lại có tầm quan trọng đặc biệt, có tác dụng quyết định việc hình thành chất lượng sản phẩm
Công nghệ: Đây là quá trình phức tạp, vừa làm thay đổi ít nhiều, hoặc bổ sung, cải thiện nhiều tính chất ban đầu của nguyên vật liệu theo hướng sao cho phù hơp với công dụng của sản phẩm.
Ngoài yếu tố kỹ thuật- công nghệ cần chú ý đến việc lựa chọn thiết bị. Kinh nghiệm cho thấy kỹ thuật và công nghệ hiện đại và được đổi mới, nhưng thiết bị cũ kỹ thì không thể nào nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nhóm yếu tố kỹ thuật - công nghệ - thiết bị có mối quan hệ tương hỗ khá chặt chẽ không chỉ góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm. mà còn tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường, đa dạng hoá chủng loại, nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ.
Materials: Vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống cung cấp: Đây là yếu tố cơ bản của đầu vào, nó ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Muốn có sản phẩm đạt chất lượng tốt điều trước tiên, nguyên vật liệu để chế tạo phải đảm bảo những yêu cầu về chất lượng, mặt khác phải đảm bảo cung cấp cho cơ sở sản xuất những nguyên nhiên vật liệu đúng số lượng, đúng kì hạn, có như vậy cơ sở sản xuất mới chủ động ổn định quá trình sản xuất và thực hiện đúng kế hoạch sản xuất.
2.2.Quản trị chất lượng sản phẩm
2.2.1. Khái niệm quản trị chất lượng sản phẩm.
Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO 9000 cho rằng: Quản trị chất lượng là một hoạt động có chức năng quản trị chung nhằm mục đích đề ra chính sách, mục tiêu, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng.
Mục tiêu cơ bản của quản lý chất lượng: 3R (Right time, Right price, Right quality).
Ý tưởng chiến lược của quản lý chất lượng là: Không sai lỗi (ZD - Zezo Defect).
Phương châm: Làm đúng ngay từ đầu (Do right the first time), không có tồn kho (non stock production), hoặc phương pháp cung ứng đúng hạn, kịp thời, đúng nhu cầu.
Theo định nghĩa của tiêu chuẩn ISO 9001:2005, Quản trị chất lượng là " hoạt động tương tác và phối hợp lẫn nhau nhằm định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng". Hoạt động quản trị chất lượng bao gồm việc thiết lập chính sách và mục tiêu chất lượng; hoạch định chất lượng; kiểm soát chất lượng; đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng.
2.2.2. Vai trò của quản trị chất lượng sản phẩm trong hội nhập.
Quản trị chất lượng chính là một trong những phương thức tiếp cận và tìm cách đạt được những thắng lợi trong cạnh tranh gay gắt trên thương trường nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Quản trị chất lượng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh.
Đối với nền kinh tế: Đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ sẽ tiết kiệm được lao động cho xã hội, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và các công cụ lao động đông thời cũng tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn.
Đối với người tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ: Khi sử dụng sản phẩm có chất lượng thì yên tâm hơn về chất lượng sản phẩm và giá cả, mang lại cho người tiêu dùng gia tăng về giá trị sử dụng sản phẩm và dịch vụ.
Trong trong nền kinh tế thế giới suy thoái, các doanh nghiệp muốn tồn tạo và phát triển các doanh nghiệp cần phải cạnh canh gay gắt, không chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà còn các doanh nghiệp nước ngoài ,và với xu hướng từ cạnh tranh giá thành sang cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, khi chất lượng sản phẩm cao thì đồng nghĩa với việc công ty giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường, và doanh nghiệp chỉ có không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, thì sản phẩm của doanh nghiệp mới được khách hàng tin dùng. Đối với các công ty cổ phần kỹ thật năng lượng và môi trường EEC thì vấn đề chất lượng và quản trị chất lượng vẫn là vấn đề khó khăn trong giai đoạn hiện nay, nó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và các mục tiêu công ty đã đề ra, do đó công ty cần đầu tư và đưa ra các giải pháp hữu hiện nhằm bảo bảo chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm, như vậy công ty mới có thể tồn tại và phát triển trong xu thế