Tăng cường huy động vốn cho vay tại ngân hàng công thương Bến thủy - TP Vinh

Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để có th ể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơsở để ngân hàng xây dựng chiến lược dự trữ phù hợp. -Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định, người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đólãi suất thường thấp. Tiền gửi không kỳ hạn là một trongnhững nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động. Hình thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì, các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng mục đích chính không phải đểnhận lãi mà là để hưởng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp; đólà các d ịch vụ thanh toán, ngân quỹ, thu chi hộ,. Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của những khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc khôngthực sự an tâm về việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào đóvới lượng tiền hiện còn nhành rỗi. Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đócủa lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và ngân hàng muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền này. Do vậy, quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ trong các ngân hàng.

pdf10 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường huy động vốn cho vay tại ngân hàng công thương Bến thủy - TP Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để ngân hàng xây dựng chiến lược dự trữ phù hợp. - Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định, người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Tiền gửi không kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động. Hình thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì, các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng mục đích chính không phải để nhận lãi mà là để hưởng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp; đó là các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, thu chi hộ,... Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của những khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc không thực sự an tâm về việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào đó với lượng tiền hiện còn nhành rỗi. Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và ngân hàng muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền này. Do vậy, quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ trong các ngân hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi tiền và ngân hàng về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền gửi. Do có sự xác định rõ ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền có sự ổn định cao, ngân hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Chính vì lý do này mà lãi suất của các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Bởi vì mục đích chính của việc gửi tiền vào ngân hàng là tiền lãi. Thông thường thì lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và ngược lại. 1.2. Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành. - Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà họ trực tiếp chuyển vào ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tiết kiệm, doanh nghiệp nộp tiền bán hàng,... Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với mục đích và kỳ hạn khác nhau. Cá nhân gửi tiền thường với mục đích là để hưởng lãi, các doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. - Tín dụng tạo tiền gửi: Đây cũng là một hình thức nhận tiền gửi, khi ngân hàng cho khách hàng vay tiền thì ngân hàng chuyển số tiền này vào tài khoản tiền gửi của khách hàng ngay trong ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay lập tức thì ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với thời hạn rất ngắn. 1.3. Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng. - Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của các cá nhân với mục đích là tìm kiếm một khoản thu nhập. Thường thì mỗi khoản tiền gửi tiết kiệm có khối lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu trong tương lai. - Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước phát triển, thường được sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình. Người gửi Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - để dành một khoản tiền gửi vào ngân hàng (thường là các khoản tiết kiệm đều đặn hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất định. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua sắm nhà cửa, phương tiện. - Tiền gửi thanh toán: Là khoản ký gửi của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Họ gửi tiền mục đích không phải là để hưởng thu nhập mà là hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Thông thường các khoản tiền gửi thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa sử dụng thì ngân hàng có thể sử dụng vào kinh doanh. 1.4. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi. - Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng tiền gửi. - Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới dạng ngoại tệ như USD, GBP,DEM,... những khoản ngoại tệ này cũng rất quan trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tê,... 2. Chứng thư tiền gửi loại lớn. Chứng thư tiền gửi loại lớn là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra để vay tiền của thị trường. Có hai cách phát hành loại chứng thư này: Một là khi có các đối tượng đến vay tiền để sản xuất hoặc tiêu dùng theo hợp đồng với ngân hàng, ngân hàng phát lại chứng thư này cho họ. Hoặc ngân hàng có thể công bố phát hành chứng thư này cho các đối tượng muốn đầu tư hoặc muốn gửi tiền vào ngân hàng. Thay vì một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn, họ có thể nhận loại Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - chứng thư này. Nhưng chứng thư loại này không có những đơn vị quá nhỏ bằng tiền mặt. - Khi ngân hàng thương mại phát ra chứng thư này, nó hướng tới việc vay tiền của thị trường, của nhân dân và chứng thư là giấy xác nhận khoản vay này. Đồng thời trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại tiền mặt (6 tháng, 1 năm,...) và lãi suất người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng, người sở hữu chứng thư đem nộp nó cho ngân hàng đã phát hành để nhận lại cả vốn theo giá trị bề mặt và tiền lời. - Loại chứng thư này ở các nước công nghiệp thường có thời gian đáo hạn không qúa 6 tháng kể từ ngày phát hành. Với thời gian ngắn và tính chất được sử dụng, chấp nhận không khác gì Séc hay tiền mặt, trong khi nó có lãi suất mà Séc và tiền mặt không có lãi suất, chứng thư này trở thành loại đầu tư ngắn hạn hấp dẫn nhất đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình. Tuy nhiên, khả năng vay vốn từ thị trường thông qua việc phát hành chứng thư tiền gửi hay tín phiếu tuỳ thuộc vào 4 yếu tố: Mức độ chấp nhận của nhân dân đối với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông- Sự khuyến khích hay không của Ngân hàng Trung ương- Hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn đã vay được- Sự phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ. 3. Vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung ương. Trong quá trình hoạt động của mình, do có những ngày cho vay quá nhiều, sự thiếu hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là điều thường xảy ra đối với các ngân hàng thương mại. Trong khi có một số ngân hàng thương mại thiếu dự trữ, thì nó cũng có một vài bộ phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại điện thoại hoặc liên lạc bằng Computer vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ tục vay được tiến hành qua Fax hoặc điện tín. Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống ngân hàng thương mại. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản nợ này thường rất ngắn không quá một tuần, và thường là chỉ một hay hai ngày vì mọi ngân hàng đều tự ý thức không thể lạm dụng kéo dài thời gian gây khó khăn cho ngân hàng có thiện chí giúp mình. 4. Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại là hình thức vay ngắn hạn trên thị trường của ngân hàng thương mại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho những thượng vụ đầu tư đã được ký kết hoặc hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là chuyện không có gì lạ đối với các ngân hàng thương mại. Ngoài những biện pháp nêu trên, trong những trường hợp cấp thiết, ngân hàng thương mại có thể vay của thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng cách phát hành hợp đồng mua lại. Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và đối tượng kinh doanh chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty tài chính, tổ chức tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán. Chứng khoán mà ngân hàng đem bán là chứng khoán mà ngân hàng đang đầu tư. Không phải là phiếu nợ do nó phát hành như các trường hợp vừa rồi. Những loại chứng khoán mà ngân hàng thường đầu tư nhất và có thể đem bán theo loại hợp Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - đồng này là trái phiếu Kho bạc- hối phiếu Kho bạc- cổ phiếu Kho bạc và một số loại trái phiếu, cổ phiếu khác của thị trường. Hợp đồng mua lại có những đặc điểm sau: - Hợp đồng thuyết minh rõ ràng, ngân hàng chỉ bán ra trong một ngày, hai ngày hay một tuần, hai tuần. Sau đó, ngân hàng được phép mua lại chính các loại chứng khoán mà nó đã bán ra với giá đúng bằng giá gốc cộng thêm chi phí giao dịch. Đó là lý do người ta gọi đây là thoả thuận hoặc hợp đồng mua lại. Người đã mua chứng khoán của ngân hàng, chỉ được bán lại cho chính ngân hàng này vào một thời gian ngắn sau đó. Không được phép bán cho ai khác. - Do đó, đây là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho ngân hàng thương mại. Thời gian bán tối đa không quá 2 tuần( ở các nước công nghiệp hiện nay). - Khi ngân hàng bán chứng khoán ra theo loại hợp đồng này nó thu tiền mặt về lượng tiền mặt này xuất hiện như một khoản vay ngắn hạn từ thị trường vì lượng chứng khoán xuất ra vẫn được xem như một bộ phận tài sản có mà ngân hàng sẽ thu hồi. Khoản vay ngắn hạn này là một bộ phận của tài sản nợ. - Tổ chức mua chứng khoán là người cho vay. Ngân hàng phát ra chứng khoán là chủ thể đi vay. Ngân hàng không bao giờ áp dụng hình thức bán này cho nhân dân. Bởi lẽ bán ra cho nhân dân dưới hình thức như phát hành lẻ và sau này mua lại sẽ tốn rất nhiều thời gian và hiệu quả rất chậm không giải quyết những nhu cầu tiền mặt gấp trong ngắn hạn. Hầu như phương thức này chỉ áp dụng cho các đại lý lớn mà thôi. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - - Chi phí giao dịch mà ngân hàng sẽ trả cho đại lý chính là tiền lãi từ thương vụ cho vay này đứng về phía người mua là các đại lý. Thông thường giá bán và giá mua lại(gồm cả lãi) đã được thống nhất sắn trong hợp đồng với những khoảng thời gian đã định trược. ở các nước có thị trường tài chính phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Anh, ý,... Các ngân hàng thương mại vay nợ dưới hình thức này gần như mỗi tuần trong tài sản nợ của họ luôn luôn có khoản mục vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại, nằm trong khoản vay ngắn hạn từ thị trường. 5. Vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ. Đây là khoản mục cuối cùng trong các khoản vay từ thị trường và cũng là loại tài sản ít thông dụng nhất. Ngân hàng có thể vay nóng, với l•i suất khá cao và thời gian từ ngắn đến rất ngắn, mỗi khi quá kẹt tiền mặt bằng những thoả thuận với các thân chủ giàu có vẫn quan hệ thường xuyên với ngân hàng như các công ty, các tập đoàn kinh doanh, các đại lý tài chính khác,...Hình thức vay này được thực hiện thông qua một hợp đồng trong đó thuyết minh rõ người cho vay chấp nhận rõ khoản tiền mà họ cho vay sẽ là loại tài sản nợ được đền bù sau chót trong trường hợp ngân hàng vỡ nợ. Vì sao có thoả thuận này! vì họ đã được lãi suất cao hơn bất kỳ một khoản vay nào khác. Chứng thư mà ngân hàng giao cho họ khi vay là một loại giấy nợ của ngân hàng (Bank debentures). ở Hoa Kỳ, nó có một tên gọi rộng là giấy nợ phụ (subordinated debentures). Những khoản vay này khá phổ biến ở Mỹ, và một thời kỳ ở Nhật và Hàn Quốc. 6. Vay của Ngân hàng Trung ương. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Các ngân hàng thương mại hầu như đều được sự cho phép thành lập của Ngân hàng Trung ương, cho nên nó đều được quyền vay tiền tại Ngân hàng Trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ. Trường hợp không may diễn ra khi ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc Ngân hàng Trung ương không muốn khuyến khích sự bàng trướng tín dụng, hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Do đó, các ngân hàng thương mại chỉ miễn cưỡng vay trong những tình huống thật ngặt nghèo và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh. Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba lần, dịch vụ vay từ cửa ngõ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương vẫn là một khoản mục cố định trong tài sản nợ vì không có ngân hàng thương mại nào mà chưa hề vay của Ngân hàng Trung ương bao giờ từ khi thành lập. 7. Các khoản vay từ công ty mẹ. Một hình thức vay vốn khác ngoài các hình thức trên là vốn vay từ công ty mẹ (parent company). Tại các nước đã phát triển, một công ty hoặc một tập đoàn kinh doanh có thể là chủ của một đến rất nhiều ngân hàng thương mại. Thay vì ngân hàng phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền của thị trường bằng các hình thức kể trên, có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc của Ngân hàng Trung ương về dự trữ, lãi suất và kể cả thủ tục, các công ty mẹ của ngân hàng có thể thay thế nó làm chuyện đó dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc các loại thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy động được về cho ngân hàng hoạt động. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Mỗi khi Ngân hàng Trung ương ràng buộc họ quá nhiều điều kiện không thể phát hành trái phiếu được như ý muốn. Hoặc nếu phát hành được cũng sẽ phải trả chi phí rất cao. Vậy nên giao cho các công ty mẹ phát hành là cách trốn thoát của họ để đạt những muc đích ấy. Lý do này giải thích vì sao hầu như ở tất cả các nước phát triển, các ngân hàng thương mại luôn luôn là con đẻ của một công ty kinh doanh, công ty tài chính hoặc ít nhất là có quan hệ mật thiết với các đối tượng trên. Trên đây là các hình thức huy động vốn thường thấy của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên đối với mỗi ngân hàng khác nhau, ở các nước khác nhau và trong các giai đoạn khác nhau thì có thể có các phương thức huy động khác. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM 1. Các nhân tố bên ngoài 1.1: Chu kỳ phát triển kinh tế Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu nhập dân cư được đảm bảo và ổn định thì nguồn tiền vào ra của các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được của ngân hàng ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của ngân hàng cũng được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Nếu nền kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư biến động thì lòng tin về đồng tiền của dân chúng bị giảm sút. Khi đó khả năng huy động vốn của ngân hàng không những bị giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký gửi vào ngân hàng cũng có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và củng cố niềm tin cho khách hàng. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 1.2: Môi trường luật pháp Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Các hoạt động của ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà nước. Mặt khác, ở Việt nam hiện nay các ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình tổng công ty, do vậy các chi nhánh ngân hàng trong hoạt động của mình ngoài việc phải tuân thủ theo pháp luật và các văn bản dưới luật của nhà nước ban hành còn phải tuân thủ theo các quy định mà ngân hàng mẹ ban hành trong từng thời kỳ về lãi suất, tỷ lệ dự trữ, hạn mức cho vay....Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng của hoạt động huy động vốn. 1.3. Điều kiện về môi trường cạnh tranh Khi định ra chiến lược phát triển cho ngân hàng rõ ràng cần phải tính đến điều kiện về môi trường kinh doanh. Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên địa bàn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển, ngân hàng cần phải định ra chiến lược kinh doanh phù hợp để có thể thắng trong cạnh tranh với ngân hàng khác. Trong quá trình cạnh tranh với đối thủ, ngân hàng buộc phải cải tiến và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thực hiện mức lãi suất hợp lý, nghiên cứu kỹ thị trường và làm tốt công tác marketing. Ngân hàng phải bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để có thể làm tốt công việc của mình. Như vậy, cạnh tranh vừa là thách thức vừa là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt động ngân hàng trong đó có hoạt động huy động vốn. 1.4. Yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội, tâm lý khách hàng Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Luận văn liên quan