Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (ngày 30/7/2005) đã đề ra những định hướng cơ bản về đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thuộc hệ thống chính trị Việt Nam (bao gồm cán bộ công chức thuộc hệ thống các cơ quan của Đảng; các cơ quan thuộc hệ thống chính trị - xã hội và các cơ quan nhà nước).
Để thực hiện được việc đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát và đánh giá lại toàn bộ nội dung chương trình đã và đang được thực hiện tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tại Học viện Hành chính và các Học viện Chính trị - Hành chính khu vực.
Bên cạnh việc nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung phần lý luận chính trị đã được dạy tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh từ nhiều năm nay, chương trình mới bổ sung thêm phần kiến thức, kỹ năng gắn liền với quản lý hành chính nhà nước . Đây là một phần kiến thức và kỹ năng không chỉ cần cho cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy nhà nước mà còn cho cán bộ, công chức nói chung làm việc cả trong các tổ chức chính trị và chính trị xã hội.
Nội dung của phần khoa học hành chính bao gồm 15 chuyên đề . Các chuyên đề trên được biên soạn dưới sự chỉ đạo chung của Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và thông qua Ban chủ nhiệm chương trình.
Đây là tài liệu phần khoa học hành chính lần đầu tiên được biên soạn thống nhất trong chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính. Do đó khó tránh khỏi những sự trùng lắp nhất định. Tập thể tác giả mong nhận được sự đóng góp của các giảng viên và học viên để tài liệu được hoàn thiện hơn ở lần tái bản.
457 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10891 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tập bài giảng phần khoa học hành chính trong chương trình cao cấp lý luận chính trị - Hành chính dành cho các đối tượng đào tạo ở các học viện chính trị - hành chính khu vực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ -HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH
TẬP BÀI GIẢNG
Phần Khoa học hành chính trong
Chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính dành cho các đối tượng đào tạo
ở các Học viện Chính trị - Hành chính khu vực
Hà nội – 12/2009
LỜI NÓI ĐẦU
Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (ngày 30/7/2005) đã đề ra những định hướng cơ bản về đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thuộc hệ thống chính trị Việt Nam (bao gồm cán bộ công chức thuộc hệ thống các cơ quan của Đảng; các cơ quan thuộc hệ thống chính trị - xã hội và các cơ quan nhà nước).
Để thực hiện được việc đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát và đánh giá lại toàn bộ nội dung chương trình đã và đang được thực hiện tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tại Học viện Hành chính và các Học viện Chính trị - Hành chính khu vực.
Bên cạnh việc nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung phần lý luận chính trị đã được dạy tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh từ nhiều năm nay, chương trình mới bổ sung thêm phần kiến thức, kỹ năng gắn liền với quản lý hành chính nhà nước . Đây là một phần kiến thức và kỹ năng không chỉ cần cho cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy nhà nước mà còn cho cán bộ, công chức nói chung làm việc cả trong các tổ chức chính trị và chính trị xã hội.
Nội dung của phần khoa học hành chính bao gồm 15 chuyên đề . Các chuyên đề trên được biên soạn dưới sự chỉ đạo chung của Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và thông qua Ban chủ nhiệm chương trình.
Đây là tài liệu phần khoa học hành chính lần đầu tiên được biên soạn thống nhất trong chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính. Do đó khó tránh khỏi những sự trùng lắp nhất định. Tập thể tác giả mong nhận được sự đóng góp của các giảng viên và học viên để tài liệu được hoàn thiện hơn ở lần tái bản..
TẬP THỂ TÁC GIẢ
Chuyên đề 1: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải
PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri
I. TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Quá trình hình thành và phát triển quản lý nhà nước
Tập quán sinh sống của con người là quần tụ theo cộng đồng. Trong cộng đồng sinh tồn này, có nhiều việc mà một người không thể làm được hoặc làm được nhưng kém hiệu quả, do đó cần sự liên kết để cùng thực hiện. Từ những yêu cầu khách quan về sự phối hợp cộng đồng, dần dần hình thành một tổ chức.
Xét từ góc độ kinh tế, ngay từ những ngày đầu tồn tại, con người đã biết tìm kiếm các nguồn vật chất sẵn có trong tự nhiên, hay tự tạo ra để đáp ứng nhu cầu sinh tồn. Nhu cầu đảm bảo cho sự sống hàng ngày không ngừng được tăng lên cả về lượng và về chất, trong khi của cải trong thiên nhiên là hữu hạn và mang tính thời vụ. Thực tế khách quan này buộc con người phải tìm cách tự tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho xã hội thay thế những sản phẩm tự nhiên. Dù nhiều hay ít, sản phẩm làm ra vẫn chứa đựng những tài nguyên thiên nhiên, vì vậy con người phải tập trung khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên tổng hợp; phải sử dụng những thành quả của nền văn minh để khai thác và chế tác tài nguyên. Không những thế con người còn phải đấu tranh với các lực lượng đối lập trong xã hội và tự nhiên để tồn tại và phát triển. Để đạt được mục tiêu mưu sinh đó con người không thể sống riêng rẽ mà phải tham gia vào quá trình hiệp tác, phân công lao động để vừa tạo ra sức mạnh cộng đồng, vừa phát huy ưu thế của mỗi người, mỗi bộ phận. Hiệp tác và phân công lao động tiến dần từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Dù ở trình độ phối hợp nào thì sự hiệp tác, phân công lao động cũng không phải là hoạt động của mỗi người và là của cả tổ chức xã hội; vì thế cần đến yếu tố điều hành, phối hợp các bộ phận có trong tổ chức xã hội. Yếu tố đó là quản lý.
Quản lý ra đời gắn liền với hoạt động chung của nhiều người trong xã hội như C.Mác đã đề cập đến trong thời đại công nghiệp cơ khí: “Mọi người lao động trực tiếp trong xã hội hoặc lao động chung thực hiện trên quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản lý”. Theo nghiên cứu của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, thì ngay trong cộng đồng xã hội thị tộc, xã hội nguyên thuỷ đã hình thành các tổ chức tự quản lý, đó là hội đồng thị tộc và người đứng đầu là tù trưởng có vai trò thực hiện chức năng quản lý trong cộng đồng thị tộc. Khi chế độ tư hữu ra đời, cũng là lúc xuất hiện các tầng lớp, giai cấp và mâu thuẫn giai cấp. Để duy trì địa vị của giai cấp thống trị và giải quyết các mâu thuẫn không thể điều hoà thì Nhà nước xuất hiện để thực hiện chức năng cai quản toàn xã hội.
Cùng với sự phát triển của hiệp tác và phân công lao động từ thấp đến cao, xã hội loài người đã trải qua 3 cuộc cách mạng gắn liền với các tổ chức kinh tế – chính trị – xã hội. Trong mỗi tổ chức đó, quản lý nhà nước có vai trò kết hợp sự nỗ lực chung của mỗi người trong xã hội và sử dụng tốt các nguồn lực vật chất có được để đạt được mục tiêu chung và mục tiêu riêng của từng thành viên trong xã hội.
Như vậy, nguồn gốc quản lý nhà nước là sự cần thiết kết hợp và phối hợp hoạt động giữa các cá nhân trong xã hội, giữa con người với tự nhiên để mang lại lợi ích mong muốn cho toàn xã hội. Quản lý xã hội xuất hiện ngay từ khi xã hội hình thành.
Xét từ góc độ xã hội, khi cộng đồng xã hội hình thành đã cần có người làm chức năng phân phối, điều hoà sản phẩm cho mọi cá nhân trong cộng đồng. Cộng đồng xã hội ngày càng mở rộng, một người không thể làm hết chức năng quản lý, điều hành mà phải một nhóm người, hay một tập đoàn người. Những người nắm quyền phân phối sản phẩm sẽ phân phối có lợi cho nhóm nhỏ quản lý. Vì vậy, đại đa số dân chúng bị phân phối thiếu bình đẳng. Họ đấu tranh đòi bình đẳng xã hội. Tập đoàn người nắm quyền đó cai trị lại và hình thành bộ máy nhà nước. Khi chuyển sang xã hội dân chủ, bộ máy nhà nước này chuyển dần sang chức năng chính là: quản lý xã hội đảm bảo cho sự ổn định phát triển.
Như vậy, từ góc độ xã hội cũng đã khẳng định, ngay từ khi cộng đồng xã hội xuất hiện hình thành nhà nước thì quản lý nhà nước cũng đã xuất hiện. Nó tồn tại khách quan cùng với sự phát triển xã hội.
Quản lý là một hoạt động khách quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện một mục tiêu chung. Quản lý diễn ra với mọi quy mô, mọi cấp độ của tổ chức từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, đặc biệt là phối hợp trong lĩnh vực phòng chống thiên tai. Để duy trì và bảo vệ đời sống dân cư, con người phải dựa vào sức mạnh của cộng đồng trên các phạm vi. Trong thực tế, để tái lập và bảo vệ môi trường sống thì mỗi quốc gia hay khu vực không thể tự giải quyết được mà phải có sự nỗ lực chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hoặc để bảo vệ lợi ích của một quốc gia, của một chủ đầu tư thì cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều thành viên ở các quốc gia khác trên toàn cầu, như các công ty đa quốc gia, các tổ chức kinh tế khu vực. Còn để tạo ra những bộ phận hay sản phẩm giản đơn thì chỉ cần sự đồng tâm, nhất trí của một nhóm cá nhân với những thiết bị nhất định. Song dù tổ chức ở quy mô lớn hay nhỏ thì mọi hoạt động của thực thể cũng bao gồm hai bộ phận có đặc tính khác nhau rõ rệt là người điều hành và người thực hiện. Hai bộ phận này tồn tại độc lập trong một thể thống nhất cùng hướng tới mục tiêu chung của tổ chức nhà nước.
Như vậy, quản lý nhà nước đã trở thành một loại hoạt động phổ biến trong mọi lĩnh vực, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi cấp độ và liên quan đến nhiều thành phần, đối tượng trong xã hội. Trong số các hoạt động đó thì quản lý kinh tế – xã hội được coi là lĩnh vực phức tạp hơn cả. Hoạt động kinh tế – xã hội diễn ra thường xuyên liên tục, ngày càng phong phú, đa dạng, nó liên quan đến mọi tầng lớp trong xã hội trong các mối quan hệ vĩ mô và vi mô; liên quan đến phong tục tập quán, truyền thống văn hoá, lịch sử của một quốc gia, dân tộc.v.v… Tính phức tạp của quản lý kinh tế – xã hội thể hiện ở cả những quan hệ chính thức - cơ bản được điều chỉnh bởi pháp luật và cả những quan hệ phi chính thức phải điều chỉnh bằng những phạm trù đạo đức, phong tục, tập quán. Vì vậy, phải biết kết hợp hài hoà giữa nguyên tắc quản lý hành chính, kinh tế và giáo dục thuyết phục mới đạt được mục tiêu dự kiến.
1.2. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt
Quản lý xã hội được C.Mác coi là chức năng đặc biệt nảy sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động.
Quản lý là một yếu tố hết sức quan trọng không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển cao thì vai trò của quản lý càng lớn và nội dung càng phức tạp.
Trong công tác quản lý, có rất nhiều yếu tố tác động, đặc biệt có 5 yếu tố chủ yếu sau đây mang tính đặc trưng của quản lý xã hội.
Một là, yếu tố xã hội, yếu tố con người.
Vì con người và do con người làm mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội, là mục đích của hoạt động quản lý nhà nước.
Đảng đã chỉ rõ: “Chiến lược kinh tế – xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp” Văn kiện Đại hội VII. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
/.
Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Mọi sự phát triển xã hội đều thông qua hoạt động của con người. Các cơ quan, các viên chức lãnh đạo quản lý cần phải giải quyết một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học và thực tế các mối quan hệ xã hội giữa người và người trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước. Mối quan hệ xã hội này rất phức tạp, nhiều chiều: dọc, ngang, trên, dưới. Phải giải quyết trên quan điểm hệ thống biện chứng và lịch sử thì quá trình quản lý mới cân đối, hài hoà và có hiệu quả.
Phải hiểu và đánh giá đúng con người. Có thương yêu, quý trọng, biết nguyện vọng, tâm tư và tình cảm của con người, thì hoạt động quản lý mới thực hiện được quan điểm “vì con người, do con người”. Không hiểu con người thì không thể quản lý con người được.
Hai là, yếu tố chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn” của nước ta. Nội dung của xã hội chủ nghĩa là:
-Do nhân dân lao động làm chủ.
-Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
-Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
-Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
-Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Yếu tố chính trị trong quản lý đòi hỏi các viên chức quản lý phải quán triệt tư tưởng cách mạng là thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời phải nhận thức và thực hiện một cách đúng đắn nội dung cơ bản của chính quyền thuộc về nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân và trí thức. Chính quyền đó phải theo đường lối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản. Giai đoạn từ nay đến năm 2020 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ba là, yếu tố tổ chức.
Tổ chức là một khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ giữa các con người để thực hiện một công việc quản lý. Đó là sự sắp đặt một hệ thống bộ máy quản lý, quy định chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền cho từng cơ quan trong bộ máy ấy; quy định các mối quan hệ dọc, ngang của từng cơ quan; bố trí cán bộ và các chế độ chính sách cán bộ... Yếu tố này rất quan trọng, vì muốn quản lý phải có tổ chức, không có tổ chức không thể quản lý được.
Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ rằng một tổ chức được sinh ra và tồn tại là do nhu cầu quản lý xã hội, nhu cầu công việc, nhất thiết không được xuất phát từ tình cảm riêng tư của một nhóm hoặc một cá nhân lãnh đạo nào. Tiếp đến một tổ chức đã hình thành thì phải có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng, có một biên chế viên chức đủ mạnh để thực thi công vụ... đồng thời phải hoạt động và hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích thực sự cho xã hội. Nếu không được như vậy thì tổ chức ấy sinh ra và tồn tại là không có ích, không có mục đích, nên giải tán.
Bốn là, yếu tố quyền uy.
Quyền uy là thể thống nhất của quyền lực và uy tín. Quyền lực là công cụ để quản lý bao gồm một hệ thống pháp luật, điều lệ, quy chế, nội quy, kỷ luật, kỷ cương... được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân công, phân cấp rành mạch trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý. Uy tín là phẩm chất đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức và năng lực thực hiện đổi mới, biết tổ chức và điều hành công việc, trung thực, thẳng thắn, có lối sống lành mạnh, có khả năng đoàn kết, có phong cách dân chủ, tập thể, có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu, nói đi đôi với làm, được quần chúng tín nhiệm. Muốn quản lý phải có quyền lực. Nhưng chỉ có quyền lực mà không có uy tín để thực hiện quyền lực thì cũng không thể quản lý được. Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ rằng để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước thì mọi cán bộ, công chức trước hết là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải là những người có đức, có tài trong đó đức là then chốt; phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ. Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận thông tin mới, cũng là biểu hiện của sự thoái hoá.
Năm là, yếu tố thông tin.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin trở thành một nhu cầu bức thiết cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cơ quan, mỗi tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị kinh tế, văn hoá... Trong quản lý, thông tin là căn cứ để ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định có hiệu quả. Không có thông tin (trong nước, quốc tế ở mọi lĩnh vực một cách chính xác và kịp thời) thì người quản lý có mắt như mù, có tai như bị điếc. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII ghi rõ: “Đến năm 2000 xây dựng được cơ sở hạ tầng truyền thông tin học quốc gia. Ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả; hình thành mạng thông tin quốc gia, liên kết với một số mạng thông tin quốc tế.
II. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
2.1.1. Khái niệm về hành chính.
Ngôn ngữ sử dụng trong đời sống xã hội là sự quy ước, một từ có thể biểu hiện nhiều nghĩa khác nhau và cùng một nghĩa có thể biểu thị bằng nhiều từ khác nhau (những từ đồng nghĩa – synonym). Từ “hành chính” (Administration) cũng như vậy, tuỳ từng trường hợp sử dụng được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, thuật ngữ “hành chính” là chỉ liên quan đến những công tác mang ý nghĩa văn phòng, giấy tờ hoặc chỉ liên quan đến những hoạt động mang tính phục vụ hội nghị, các cuộc họp của cơ quan.
Theo nghĩa rộng, xuất phát từ thuật ngữ tiếng Anh “Administration”, nghĩa là điều hành, điều khiển, chỉ huy nên nội hàm gần đồng nghĩa với “quản lý” (management). Ở đây trong khuôn khổ chuyên đề về quản lý hành chính nhà nước, ta sử dụng nghĩa rộng của phạm trù này.
2.1.2. Khái niệm quản lý hành chính Nhà nước
Quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động hành chính của các cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật pháp. Nội dung quản lý, điều hành xã hội có 2 mặt: một là, quá trình hoạt động ra văn bản quy phạm pháp luật để chấp hành luật; hai là, tổ chức, điều hành, phối hợp các hoạt động kinh tế xã hội để đưa luật pháp và duy trì trật tự đời sống xã hội theo luật định.
Quyền quản lý hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp, không có quyền lập pháp và tư pháp, song do số lượng luật không đủ đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội toàn diện nên hệ thống hành chính đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Đồng thời sau khi kết luận xét xử của toà án (tư pháp), việc quản lý thực thi pháp luật lại thuộc các cơ quan hành chính. Vậy quản lý hành chính đã góp phần quan trọng vào quy trình lập pháp và tư pháp. Do đó, hoạt động hành chính có phạm vi rộng hơn việc thực thi quyền hành pháp.
Nội dung trên cho ta thấy được phương thức quản lý của Nhà nước và sự khác nhau giữa quản lý hành chính nhà nước với các dạng quản lý xã hội khác.
Tóm lại, quản lý hành chính nhà nước hay còn gọi là hành chính công là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước; là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành nhằm duy trì và phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đạt được các mục tiêu của quốc gia một cách hiệu quả nhất trong từng giai đoạn phát triển.
2.2. Vai trò của quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là một lĩnh vực rộng lớn, có mặt ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực trong xã hội, do vậy quản lý hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng trên nhiều khía cạnh.
2.2.1. Vai trò thực hiện chức năng điều khiển dẫn dắt sự phát triển xã hội
Quản lý hành chính nhà nước là điều hành, điều khiển và chỉ huy. Đó là sự điều khiển con người và tổ chức trong xã hội làm theo ý muốn của các nhà quản lý, các tổ chức công quyền. Trong quản lý hành chính nhà nước, các nhà quản lý sử dụng nhiều hình thức, cách thức khác nhau để tác động đến nhân viên, làm cho họ chịu sự chỉ đạo, điều khiển của nhà quản lý. Quản lý hành chính nhà nước đóng vai trò khâu nối các quá trình kinh tế - xã hội và điều hành giải quyết các mối quan hệ kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Muốn thực hiện những vấn đề mà tổ chức nhà nước mong muốn thì ngay bản thân các nhà quản lý nhà nước phải biết dự đoán, dự báo để xác định những khả năng có thể xảy ra và từ đó tìm cách bắt buộc mọi người nhận thức và thực hiện theo điều mà hành chính yêu cầu, không để tự do xảy ra.
Con người là một thực thể hữu cơ có những quyền nhất định. Nhiều người cho rằng không có thể vi phạm những vấn đề thuộc quyền tự do của cá nhân. Nhưng trong quản lý nhà nước thì khi hợp tác, phối hợp với nhau, nhiều quyền tự do sẽ bị thay đổi. Nhà quản lý điều khiển, chỉ huy người khác để phục vụ cho mục tiêu của tổ chức, do đó quản lý hành chính nhà nước phải hạn chế một số vấn đề thuộc quyền tự do cá nhân. Quản lý hành chính nhà nước cũng như các dạng quản lý xã hội khác đòi hỏi sự hợp tác, tôn trọng cá nhân, tổ chức trong sự hiện diện cần thiết của tổ chức, cá nhân đó đối với sự tồn tại và phát triển của tổ chức.
2.2.2. Vai trò thực hiện chức năng quản lý toàn diện xã hội và hỗ trợ phát triển các tổ chức trong xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước thuộc phạm trù quản lý xã hội vĩ mô, có chức năng quản lý toàn diện xã hội; bao trùm toàn bộ xã hội đối với mọi lĩnh vực và mọi đối tượng trong xã hội.
Từ chức năng này, có thể nói vai trò của quản lý hành chính nhà nước có phạm vi rộng bao trùm toàn bộ xã hội. Bộ máy quản lý của Nhà nước luôn có xu hướng phình to và sự phát triển xã hội cũng đòi hỏi mở rộng phạm vi quản lý đa dạng và phức tạp. Mọi sự quản lý khác trong xã hội đều chịu sự quản lý của Nhà nước. Vai trò này làm nổi bật sự khác nhau với quản lý của doanh nghiệp, của các tổ chức chính trị xã hội.
Ngay trên địa bàn lãnh thổ một địa phương, người có thẩm quy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 15 chuyen de hanh chinh hoc.doc
- 15 chuyn 2737873 Hnh chnh h7885c..doc