Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu mà mỗi dân tộc, mỗi đất nước phải trải qua. Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn hiệu quả. Một trong những biện pháp, đã được nhiều nước phát triển sử dụng có hiệu quả, nhằm huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nước vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính đặc trưng của cơ chế thị trường. Chỉ có nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì mới có thị trường chứng khoán đúng nghĩa. Cũng như hầu hết các nước có nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, xu hướng hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam cũng là một tất yếu khách quan.
Ngày 20 tháng 7 năm 2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) thành phố Hồ Chí Minh và cũng là TTGDCK đầu tiên của Việt Nam đã chính thức được thành lập. Như vậy, từ nay, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm một kênh huy động vốn mới. Đây là một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta.
Theo kinh nghiệm của các nước, những điều kiện cần thiết để thiết lập và tổ chức vận hành có hiệu quả một thị trường chứng khoán được đặt ra rất khắt khe, liên quan tới nhiều lĩnh vực như môi trường pháp lý, chế độ tài chính kế toán, kiểm toán, trình độ cán bộ quản lý, sự hiểu biết của công chúng và đặc biệt là vai trò của hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Không một nước nào trên thế giới có một thị trường chứng khoán phát triển mà lại không có một hệ thống ngân hàng vững mạnh.
Chính vì lý do đó và do một số hạn chế nhất định nên tôi đã đi đến lựa chọn đề tài: “Thị trường chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán”
49 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3141 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu mà mỗi dân tộc, mỗi đất nước phải trải qua. Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn hiệu quả. Một trong những biện pháp, đã được nhiều nước phát triển sử dụng có hiệu quả, nhằm huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nước vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính đặc trưng của cơ chế thị trường. Chỉ có nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì mới có thị trường chứng khoán đúng nghĩa. Cũng như hầu hết các nước có nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, xu hướng hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam cũng là một tất yếu khách quan.
Ngày 20 tháng 7 năm 2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) thành phố Hồ Chí Minh và cũng là TTGDCK đầu tiên của Việt Nam đã chính thức được thành lập. Như vậy, từ nay, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm một kênh huy động vốn mới. Đây là một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta.
Theo kinh nghiệm của các nước, những điều kiện cần thiết để thiết lập và tổ chức vận hành có hiệu quả một thị trường chứng khoán được đặt ra rất khắt khe, liên quan tới nhiều lĩnh vực như môi trường pháp lý, chế độ tài chính kế toán, kiểm toán, trình độ cán bộ quản lý, sự hiểu biết của công chúng… và đặc biệt là vai trò của hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Không một nước nào trên thế giới có một thị trường chứng khoán phát triển mà lại không có một hệ thống ngân hàng vững mạnh.
Chính vì lý do đó và do một số hạn chế nhất định nên tôi đã đi đến lựa chọn đề tài: “Thị trường chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán”
Thị trường chứng khoán và vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế quốc dân
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vốn là một vấn đề được đặt lên hàng đầu. Tiềm năng kinh tế của ta có, lực lượng lao động của ta dồi dào, vậy làm sao có vốn để đầu tư khai thác, thực hiện các dự án nhằm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước? Một trong những hướng quan trọng để giải quyết vấn đề về vốn là huy động các nguồn vốn. Trên thực tế, có hai loại nguồn vốn cơ bản có thể khai thác, đó là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài, trong đó, huy động nguồn vốn trong nước được coi là phương hướng chủ yếu, có vai trò quyết định. Vốn nước ngoài có thể trong thời gian đầu chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đầu tư nhưng cũng chỉ đóng vai trò quan trọng. Nói đến vấn đề huy động vốn trong nước là nói đến vai trò của hệ thống tài chính. Vai trò đó được thể hiện trong việc vốn được chuyển từ nơi thừa vốn nhưng không có cơ hội đầu tư đến nơi thiếu vốn và có nhu cầu đầu tư. Quá trình này có thể được thực hiện một cách trực tiếp từ người có vốn đến người có nhu cầu vay bằng việc người đi vay bán cho người có vốn những chứng khoán (hay còn gọi là những công cụ tài chính, đó là những trái quyền, quyền được hưởng, đối với thu nhập hoặc tài sản tương lai của người vay). Những chứng khoán này có thể được mua đi bán lại. Thị trường mà ở đó diễn ra việc mua bán các chứng khoán này (bao gồm cổ phiếu và trái phiếu) gọi là thị trường chứng khoán (TTCK). Như vậy, TTCK là một định chế tài chính thông qua các công cụ cổ phiếu, trái phiếu, với nhiều loại khác nhau, cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, tín dụng, và Chính phủ, chính quyền địa phương huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong dân, dựa vào đầu tư phát triển. Từ lâu các nhà doanh nghiệp lớn của thế giới đã khẳng định: không thể triển khai các dự án tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nếu không tập hợp được những nguồn vốn lẻ tẻ trong dân chúng thành một nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng cho những mục tiêu trung và dài hạn. TTCK có vai trò đó, cái mà ngành ngân hàng với phương thức kinh doanh “ăn chắc” không thể làm được. TTCK là “bà đỡ” cho các dự án kinh doanh tiến bộ nhất đi vào cuộc sống, là biện pháp chủ yếu của việc giải phóng năng lực sản xuất, cái mà hàng thế kỷ nay đã được kiểm nghiệm và được khẳng định trong hầu hết các công ty kinh doanh thành đạt nhất của thế giới.
Chính vì vậy, trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta, việc thành lập và phát triển TTCK là một mắt xích quan trọng trong tổng thể các vấn đề đổi mới cơ chế kinh tế. Nhận thức được vấn đề này, ngày 20 tháng 7 năm 2000, Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) và cũng là TTGDCK đầu tiên của Việt Nam đã được chính thức khai trương. Nó đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt Nam, bước phát triển mới và hoàn thiện thêm đối với mô hình kinh tế thị trường (KTTT) ở nước ta. Bởi lẽ, từ nay, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm một kênh, một công cụ và cũng chính là một định chế tài chính quan trọng, cùng với hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính khác tham gia vào hoạt động tạo nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn, phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. TTCK không phải là sản phẩm cao cấp, hay sản phẩm đặc biệt nào của Chủ nghĩa tư bản, mà nó chỉ là một bộ phận không thể thiếu của KTTT, đó là một hình thức phát triển cao nhất trong hệ thống tài chính của nền KTTT. Ngày nay, vai trò của TTCK đã được khẳng định là cần thiết đối với bất kỳ chế độ xã hội nào có nền sản xuất hàng hoá - kinh tế thị trường.
TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi và đầu tư
Muốn phát triển phải đầu tư. Để đầu tư, bất cứ một doanh nghiệp nào dù là khu vực nhà nước hay là khu vực tư nhân cũng đều có hai giải pháp cơ bản:
Biện pháp đầu tiên là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ để đầu tư qua phân phối lợi nhuận hàng năm. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ có thể thực hiện được ở những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có lãi.
Biện pháp thứ hai là huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu bằng hai nguồn: vay tín dụng trung và dài hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng và phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có nguồn tiết kiệm dồi dào và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) hay Kho bạc Nhà nước đã thực hiện huy động tiết kiệm trong dân chúng, nhưng số tiết kiệm được tập trung qua các tổ chức này chỉ là những nguồn vốn huy động ngắn hạn chưa gắn với đầu tư, chưa tạo nên nguồn vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Hơn nữa, NHTM cũng chỉ là người trung gian, cho nên ngân hàng không đủ hấp dẫn để thu hút hết các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư, do đó người có tiền dư thừa phải chuyển sang dự trữ bằng vàng, ngoại tệ để đảm bảo hệ số an toàn tài sản của mình. Ngoài ra, trong hoạt động của xã hội, bên cạnh những khoản tiền tiết kiệm của dân cư, luôn luôn tồn tại những loại quỹ có vốn bằng tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, như quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể, và các loại quỹ tương trợ khác... Một phần vốn của các loại quỹ này được gửi vào ngân hàng để thực hiện việc thanh toán, số tiền còn lại quan trọng hơn nhiều, những người quản trị quỹ luôn luôn tự hỏi là làm thế nào cho số vốn của họ vừa được sinh lợi nhiều nhất, vừa an toàn, vừa có tính tạm thời... TTCK là “chiếc đũa thần” có khả năng giải quyết được các vấn đề đó.
Thực tế cho thấy, TTCK ra đời đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, tín dụng huy động được các nguồn vốn dài hạn từ các khoản tiết kiệm và để dành trong dân chúng và các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức vào quá trình đầu tư. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ, nhưng tập hợp lại sẽ thành một khối lượng lớn khổng lồ. Số tiền khổng lồ này được tập trung qua TTCK để đưa trực tiếp vào công cuộc đầu tư có tính sản xuất. Qua đầu tư, vốn đầu tư sẽ sinh lời, càng kích thích ý thức tiết kiệm trong dân chúng.
Như vậy, nhờ TTCK, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ phiếu quỹ đầu tư, đại đa số dân chúng đều có thể tham gia được vào công cuộc đầu tư của đất nước bằng số vốn ít ỏi của mình.
TTCK là một công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sách. Ngân sách Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế – xã hội càng dễ thành công. Để có vốn cho chi tiêu, Nhà nước phải thực hiện chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo vốn cho ngân sách Nhà nước. Nhưng thông thường, nguồn thu từ thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có một nguồn thu khác, đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương. Đây là một hình thức Nhà nước vay tiền của dân cư. Điều này cũng làm giảm áp lực đối với lạm phát vì Chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông.
Ngày nay hầu hết các quốc gia, việc Nhà nước phát hành trái phiếu thông qua TTCK vay tiền của dân là biện pháp thường xuyên và có kỹ thuật tiên tiến. Nếu là trái phiếu Kho bạc, đó là nguồn thu thường xuyên của ngân sách, vốn huy động qua công cụ này được hoà vào nguồn thu thuế, từ đó phục vụ cho các chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Nếu là trái phiếu có mục đích, nguồn thu đó được sử dụng vào những mục đích đã định, như xây dựng cầu đường, sân bay, bến cảng, công trình văn hoá và phúc lợi xã hội...
Không có TTCK thì Nhà nước cũng phát hành được trái phiếu, nhưng đó chỉ là trái phiếu ngắn hạn hoặc trung hạn. Và nói chung việc phát hành sẽ có khó khăn vì khả năng thanh khoản của trái phiếu (chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt và ngược lại) là không đơn giản. Có TTCK tập trung, có việc phát hành, có việc mua đi bán lại trái phiếu theo đúng tính chất thị trường làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu thì khi đó, việc phát hành trái phiếu của Nhà nước sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn nhiều.
TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn đầu tư trong nước dù lớn đến đâu cũng có giới hạn và không đủ cho nhu cầu tài trợ các dự án đầu tư lớn. Do vậy, phải có vốn đầu tư từ nước ngoài. Trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, có nhiều chính sách và biện pháp có thể thực hiện ở nước ta. Theo Luật đầu tư hiện hành, có 3 hình thức đầu tư cơ bản: đầu tư theo từng hợp đồng, đầu tư liên doanh và đầu tư 100% vốn nước ngoài. Mỗi loại hình đầu tư đều có những mặt tích cực và tiêu cực riêng của nó. Nhìn chung thường xảy ra những tranh chấp về lợi ích giữa các bên tham gia đầu tư. Về phía ta, phải đảm bảo được hai lợi ích: quốc gia và đơn vị liên doanh, trong khi phía nước ngoài họ chỉ biết lợi ích của đơn vị liên doanh. TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất.
Trước hết nói về khả năng thu hút vốn đầu tư của TTCK. ở Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài được đánh giá là “cởi mở”, nhưng thực tế có những cản trở không nhỏ, đó là thiếu thông tin, một vấn đề mà nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Không có thông tin đầy đủ, chính xác thì dù có thừa vốn cũng không có ai dám đầu tư. Ngược lại, về phía ta cũng có những trường hợp do thiếu thông tin nên ta đã cấp giấy phép đầu tư cho những tổ chức không đáng cấp. Tuy nhiên, khi có TTCK, chúng ta sẽ phần nào khắc phục được tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực cho cả hai phía. Bởi lẽ, TTCK hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua bán chứng khoán phải công khai hoá và cập nhật toàn bộ thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán.
Thứ hai, về khả năng kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài của TTCK. Đầu tư qua TTCK là đầu tư mua bán chứng khoán tại một TTCK có tổ chức. Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định, người nước ngoài sẽ chỉ được mua theo một tỷ lệ nhất định. Đó là sự khống chế việc tham gia quản lý và kiểm soát công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Với sự khống chế ở các mức tương ứng cho từng ngành kinh tế, quyền kiểm soát công ty có vốn đầu tư nước ngoài luôn luôn thuộc về ta. Đó là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài thông qua TTCK.
TTCK lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên TTCK như một thứ hàng hóa. Người nắm giữ các chứng khoán này không sợ vốn của mình không thể lấy ra được khi không vừa ý. Vì khi cần, họ sẽ bán lại các chứng khoán này trên TTCK để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác, nhờ vậy, sinh hoạt kinh tế thêm sôi động.
Với một TTCK hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Và đến giai đoạn phát triển, giá cổ phiếu tăng lên cao, người ta đem bán số cổ phiếu đó lấy lời, để rồi lại đầu tư vào một cuộc kinh doanh khác. Vốn của họ luôn luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, đối với những người có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua được chứng khoán trên TTCK mà không sợ bị kẹt tiền, và khi cần tiền họ đem số chứng khoán đó ra bán... Một khi việc đầu tư vào các doanh nghiệp có lợi đối với mọi tầng lớp dân chúng, thì qua TTCK, các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực bất động hoá, chấp nhận vào quá trình đầu tư. Và từ đó, mọi nguồn vốn đều được lưu động hoá.
TTCK là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá
Trong công cuộc đổi mới của nước ta, Nhà nước đưa ra chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đây là quá trình chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần và nó đòi hỏi phải có TTCK. Bởi lẽ TTCK và công ty cổ phần có mối quan hệ như hình với bóng. Dân chúng bỏ tiền ra mua cổ phiếu của các công ty này, đó là hành động đầu tư dài hạn, khác với hành động tiết kiệm hoặc mua kỳ phiếu ngắn hạn. Như vậy, một câu hỏi đặt ra: người đầu tư có thể bán số cổ phiếu của mình đi một cách dễ dàng khi cần tiền được không và ở đâu? Vấn đề này chỉ có thể thực hiện được khi có TTCK.
TTCK diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán hàng ngày, hàng giờ. Với những nguyên tắc hoạt động (trung gian, đấu giá và công khai) TTCK sẽ là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự của pháp luật và phù hợp với tâm lý của người đầu tư: mệnh giá cổ phiếu được xác định chính xác trên cơ sở tài sản có của doanh nghiệp do Nhà nước, mà đại diện là Ban cổ phần hoá, xác định, còn các giá mua bán cổ phiếu được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu của thị trường. Đây là phương pháp cổ phần hoá thông qua TTCK. Và chỉ có thông qua TTCK thì Nhà nước mới có thể thực hiện cổ phần hoá đối với bất cứ loại doanh nghiệp nào, dù là doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay thua lỗ. Vì TTCK là nơi tập trung được toàn bộ quan hệ cung cầu về vốn, là nơi tập trung các nhà đầu tư.
Mặt khác, nếu không có TTCK thì vốn đầu tư qua cổ phiếu sẽ bị bất động, như vậy sẽ rất khó khăn trong việc phát hành cổ phiếu. Cổ phần hoá DNNN và các loại doanh nghiệp khác với những mục tiêu chủ yếu là thu hút mọi nguồn vốn lẻ tẻ trong dân chúng vào đầu tư. Do vậy, TTCK là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá.
TTCK kích thích các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn
Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của những công ty có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi... và dân chúng cũng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác hơn là những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng và có hiệu quả hơn. Hơn nữa, luật lệ của TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia TTCK phải công bố công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh hàng quý, hàng năm trước công chúng... Qua đó, công chúng có cơ hội nhận định đánh giá được công ty.
Việc mua bán cổ phiếu của công ty một cách tự do, khiến người có cổ phiếu trở thành chủ sở hữu của công ty, họ có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý công ty và nhận biết được khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của TTCK. Từ đó thúc đẩy công ty phải làm ăn đàng hoàng hơn, tốt hơn.
Hệ thống ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán
Vai trò của các ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoán
Như chúng ta đã biết, TTCK và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Rõ ràng TTCK chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh và được kiểm soát tốt.
Mặc dù về mặt lý thuyết hoạt động ngân hàng và chứng khoán có sự khác biệt, ví dụ ngân hàng hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ và thị trường vốn ngắn hạn, còn TTCK là thị trường vốn trung và dài hạn. Nhưng đây chỉ là sự phân biệt tương đối. Hệ thống ngân hàng cũng hoạt động trên thị trường vốn trung và dài hạn. Đồng thời, TTCK ở một khía cạnh nào đó cũng có liên quan đến thị trường vốn ngắn hạn. Khi thị trường vốn ngắn hạn hoạt động ổn định và không ngừng phát triển sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của TTCK. Bởi vậy, bất kỳ một sự biến động nhỏ nào về lãi suất, khối lượng tiền tệ, tỷ giá hối đoái trong hoạt động ngân hàng đều có thể gây ra sự biến động lớn trong hoạt động chứng khoán và ảnh hưởng lớn đến giá cả chứng khoán và ngược lại. Kinh nghiệm của Hồng Kông cho thấy khi các nhà chức trách Hồng Kông nâng lãi suất lên 200-300% để duy trì tỷ giá đã ảnh hưởng ngay lập tức đến TTCK, làm cho giá chứng khoán bị giảm ghê gớm ngày 23-10-1997. Mặt khác, về nghiệp vụ, ngành chứng khoán và ngân hàng đều có một số điểm giống nhau và cùng với mục tiêu hoạt động là điều hoà vốn trong nền kinh tế và các doanh nghiệp. Chính vì vậy sự kết hợp giữa ngành chứng khoán và ngân hàng trong các chính sách kinh tế vĩ mô cũng như việc tính các khoản thuế, phí và các vấn đề có liên quan là cần thiết.
Từ mối quan hệ trên có thể ví rằng TTCK và hệ thống ngân hàng như “hai quả tim” để điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong khi hoạt động của các NHTM chủ yếu nhằm cung ứng các nguồn vốn ngắn hạn thì vai trò của TTCK là chuyên cung cấp dòng vốn trung và dài hạn. Chính vì thế đây là hai bộ phận quan trọng cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh và chúng có mối quan hệ với nhau theo nguyên tắc “bình thông nhau”. Tức là, mỗi động thái trên thị trường tiền tệ đều kéo theo một động thái mới trên TTCK và ngược lại. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam lại không như vậy, thời gian đầu hoạt động của TTCK cho thấy rằng dường như vẫn còn một bức tường vô hình ngăn cách sự tương quan trong hoạt động của hai dòng lưu chuyển vốn này. Điều này được thể hiện rất rõ ràng trong thực tế hoạt động của thị trường tài chính gần nửa năm qua. Đặc biệt trong mấy tháng cuối năm 2000, thị trường tiền tệ có nhiều biến động mạnh như những thay đổi nhanh chóng về lãi suất, tỷ giá..., nhưng những động thái này vẫn hoàn toàn vô tác dụng đối với TTCK. TTCK vẫn cứ hoạt động theo xu hướng riêng của nó và nhiều nhà đầu tư chứng khoán thậm chí chẳng hề quan tâm đến những yếu tố này.
Chẳng hạn như những biến chuyển về lãi suất đã được thể hiện rất rõ lãi suất đồng Việt Nam tăng khá mạnh với mức tăng khoảng 0,02%/tháng so với tháng 10 - 2000. Đáng lẽ theo quy luật thị trường, việc tăng lãi suất tất yếu sẽ kéo theo việc rút lui của người đầu tư khỏi TTCK để chuyển sang đầu tư vào thị trường tiền tệ kéo theo sự giảm giá trên TTCK. Thế nhưng trên thực tế thì TTCK lại vận động theo xu hướng hoàn toàn ngược lại. Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết vẫn có chiều hướng đi lên, chỉ số chứng khoán Việt Nam - Index đều tăng trong hầu hết các phiên giao dịch. Theo kết quả của phiên giao dịch ngày 5-2-2001, giá cổ phiếu của Công ty cổ phần Giấy Hải Phòng đã vượt quá 50000đồng/cổ phiếu, còn cổ phiếu của các công ty khác, ngoại trừ cổ phiếu của Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu tỉnh Long An, đều đã vượt mức 40000đồng/cổ phiếu. Ngoài ra, tỷ giá đôla Mỹ với đồng Việt Nam cho dù tăng liên tục trong thời gian qua cũng không có tác động gì với hoạt