Thị trường ngoại hối Việt Nam từ khi đổi mới đến nay và vai trò của nó

Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng trở lên mạnh mẽ. Sự hội nhập kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trưởng mở là nhu cầu khách quan có tính qui luật với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc hình thành và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam một cách toàn diện và hiện đại theo trình độ quốc tế là rất cần thiết. Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành từng bước phát triển. Trước hết, đó là: chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù hợp hướng phát triển kinh tế thị trường mở, những nhân tố thị trường ngày càng trở lên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái, bước đầu đã đưa một số các giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như: giao dịch giao ngay, giao dich kỳ hạn, giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn tiền tệ. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, nhưng thị trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra môi trường kinh doanh ngoại hối cho các NHTM, đồng thời cung cấp công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với các công ty xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, thị trường ngoại hối Việt Nam còn rất non trẻ và sơ khai xét về trình độ quy mô hoạt động cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Nội dung chính của bài tiểu luận Chương I: Cơ sở lý luận về thị trường ngoại hối từ khi đổi mới(1986) đến nay Chương II: Thực tế thị trường ngoại hối Việt Nam Chương III: Giải pháp và ý kiến về thị trường ngoại hối

doc27 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8304 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường ngoại hối Việt Nam từ khi đổi mới đến nay và vai trò của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục những từ và thuật ngữ viết tắt NNHN: Ngân hàng Nhà nước GD: Giao dịch XHCN: Xã hội chủ nghĩa LNH: Liên Ngân hàng CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VND: Việt Nam đồng NHNT: Ngân hàng Ngoại thương USD: Đôla Mỹ TTGDNT: Thị trường Giao dịch Ngoại tệ GBP: Bảng Anh NHTW: Ngân hàng Trung ương FRF : Frăng Pháp NHTM: Ngân hàng Thương Mại DEM: Mác Đức TCTD: Tổ chức tín dụng JPY: Yên Nhật TTNTLNH: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng HKD: Đôla HồngKông MỤC LỤC Trang Chương I-Cơ sở lí luận vè thị trường ngoại hối từ khi đổi mới (1986)……….2 I-Sự hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam………...2 II-Các nghiệp vụ trong thị trường ngoại hối………………………………..12 III-Vai trò của thị trường ngoại hối…………………………………………14 Chương II-Thực tế vè thị trường ngoại hối việt Nam từ khi đổi mới………...15 Chương III-Giải pháp và ý kiến vè thị trương ngoại hối…………………….25 Danh mục bảng biểu Nội dung thay đổi giữa QĐ 101 và QĐ 203 Sơ đồ các nghiệp vụ trong thị trường ngoại hối Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993 Bảng hoạt động của hai trung tâm GD ngoại tệ Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996 Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm LỜI MỞ ĐẦU Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng trở lên mạnh mẽ. Sự hội nhập kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trưởng mở là nhu cầu khách quan có tính qui luật với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc hình thành và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam một cách toàn diện và hiện đại theo trình độ quốc tế là rất cần thiết. Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành từng bước phát triển. Trước hết, đó là: chính sách quản lý ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù hợp hướng phát triển kinh tế thị trường mở, những nhân tố thị trường ngày càng trở lên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái, bước đầu đã đưa một số các giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như: giao dịch giao ngay, giao dich kỳ hạn, giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn tiền tệ. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, nhưng thị trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra môi trường kinh doanh ngoại hối cho các NHTM, đồng thời cung cấp công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với các công ty xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, thị trường ngoại hối Việt Nam còn rất non trẻ và sơ khai xét về trình độ quy mô hoạt động cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Nội dung chính của bài tiểu luận Chương I: Cơ sở lý luận về thị trường ngoại hối từ khi đổi mới(1986) đến nay Chương II: Thực tế thị trường ngoại hối Việt Nam Chương III: Giải pháp và ý kiến về thị trường ngoại hối Chương I: Cơ sở lý luận về thị trường ngoại hối từ khi đổi mới(1986) đến nay I. Sự hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam: Sau giải phóng miền Nam tháng 4/1975, mô hình XHCN đã được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã phát huy hiệu quả trong giai đoạn chiến tranh và một số năm sau đó. Nhưng việc duy trì quá lâu một cơ chế bao cấp của nhà nước như vậy đã nảy sinh mâu thuẫn, rối loạn sâu sắc trong việc phát triển kinh tế đất nước. Với cơ chế tập trung bao cấp, trong một thời gian dài thị trường nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện hình thành và phát triển. Cho đến năm 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các yếu tố thị trường mới được hình thành và phát triển. Có thể nói, năm 1991, với quyết định số 107/QĐ-NH ngày 16/8/1991 do NHNN ban hành về “Thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ” là mốc đánh dấu cho sự hình thành một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, đến 20/9/1994 “Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” được thành lập theo Quyết định số 203/QĐ - NH thay thế cho Trung tâm giao dịch ngoại tệ. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời là bước phát triển cao hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế như một tổng thể. Như vậy, khi nghiên cứu về hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam, chúng ta có thể chia thành 3 giai đoạn, cụ thể là: Trước năm 1991: Giai đoạn Việt Nam chưa có thị trường ngoại hối có tổ chức. Từ năm 1991 đến 1994: Giai đoạn hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ. Từ năm 1994 đến nay: Giai đoạn hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 1. Thời kỳ trước năm 1991: Đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nhà nước can thiệp vào mọi mặt của đời sống xã hội, quyết định các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô theo kế hoạch quy mô tập trung toàn quốc. Sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. Do vậy, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định do Nhà nước độc quyền xác định, không cần tính đến những yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở kinh tế như vậy, Việt Nam cũng như các nước XHCN khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngoại giữa các đống tiền và sau đó quyết định bằng những thỏa thuận đa biên trong các Hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN với nhau. Sản phẩm của cơ chế xác định tỷ giá và đa tỷ giá, bao gồm tỷ giá mậu dịch (hay tỷ giá chính thức), tỷ giá phi mậu dịch (bao gồm cả tỷ giá kiều hối) và tỷ giá kết toán nội bộ, đồng thời triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển các thị trường nói chung, trong đó có thị trường ngoại hối. Hậu quả của một cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt bất chấp quy luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế, làm cho hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mai bị thâm hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương (lỗ thì ngân sách cấp bù, còn lãi thì nộp ngân sách) nhưng dù sao cũng triệt tiêu động lực phát triển xa hơn. Ngày 26/3/1988, Nghị định 53/HĐBT ra đời, tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp: NHNN có hệ thống Ngân hàng chuyên doanh. NHNN là NHTW thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, ban hành chính sách tiền tệ. Tín dụng và ngân hàng; hệ thống Ngân hàng chuyên doanh thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bước đầu từng Ngân hàng chuyên doanh hoạt động theo đặc thù gắn liền với từng lĩnh vực kinh tế. Cụ thể là: NHNT hoạt động về lĩnh vực đối ngoại, như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế..; Ngân hàng Công thương hoạt động trong lĩnh vực Công – Thương nghiệp; Ngân hàng Nông nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu từ. Như vậy, chỉ duy nhất có NHNT là được phép hoạt động và kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài, các ngân hàng khác chỉ được hoạt động trong nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ, phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hóa với nước ngoài, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 161/HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối” của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thay thế điều lệ quản lý ngoại hối ban hành theo Nghị định số 102/CP, ngày 6/7/1963 của Hội đồng Chính phủ. Sau khi Nghị định 161 ra đời, ngày 15/3/1989 NHNN Việt Nam có thông tư số 33- NH/TT hướng dẫn thi hành. Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần Nghị định 161 và THông tư 33 có thể nêu ra như sau: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiên theo quy định của NHNN Việt Nam. NHNT Việt Nam là cơ quan được phép kinh doanh. Ngoài ra, các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhành Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Trung ương Việt Nam cho phép”. Như vậy, có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ, từ nay, các Ngân hàng Thương mại nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước sự đòi hỏi phát triển các hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NHNN đã lần lượt cấp giấy phép kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế… cho các Ngân hàng Thương mại hoạt động ở Việt Nam. Tuy nhiên, về tỷ giá (yếu tố quan trọng nhất của thị trường ngoại hối), sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài, đặc biệt là sau khi thông qua Luật đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, luồng vốn ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Song, do chúng ta vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của VND và thị trường ngầm. Tỷ giá mua bán của các Ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy định là 0,5%. Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một thị trường ngoại hối chính thức hoàn chỉnh hơn để chắp nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan sát với quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 107-NH/QĐ, ngày 16/8/1991 ban hành quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ; trên cơ sở đó, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã được thành lập và đi vào hoạt động tại TP.HCM và Hà Nội. 2. Thời kỳ 1991-1994 Thời kỳ 1991-1994 là giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển đổi cơ chế theo hướng thị trường. Trong giai đoạn này đứng về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng khó khăn. Thị trường với các nước XHCN đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi (chủ yếu bằng USD). Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Cán cân vãng lai và cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt lớn, nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu, sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước XHCN và chủ yếu là Liên Xô cũ. Đứng trước tình thế hết sức khó khăn về cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế và nhu cầu bức bách về ngoại cho thanh toán quốc tế, một câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để giải quyết được vấn đề trên mà không tác động mạnh đến tình hình giá cả và sản xuất trong nước? Xử lý vấn đề này không chỉ có ngành ngân hàng mà phải phối hợp đồng bộ giữa các chính sách lớn của Chính phủ và từng ngành. Các chinh sách đó bao gồm: Các chính sách lớn của chính phủ: Đề ra 3 chương trình kinh tế lớn mà Chính phủ phải tập trung chỉ đạo, đó là : Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu; chương trình khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng; chương trình tăng cường sản xuất lương thực. Với 3 chương trình kinh tế mà Đảng và Chính phủ quan tâm chỉ đạo đã hỗ trợ đắc lực cho cung ngoại tệ của nền kinh tế và giảm nhu cẩu chi ngoại tệ tạo nên thế cân bằng cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề để hình thành và phát triển thị trường ngoại hối sau này: Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu: Đã tạo them nguồn thu ngoại tệ vững chắc cho nền kinh tế, nếu như trước năm 1991 nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu thì đến năm 1991 xuất khẩu đã tăng lên và liên tục tăng trong các năm nhu: 1991 là 2087 triệu USD; 1992 là 2580 triệu USD; 1993 là 2985 triệu USD;1994 là 4054 triệu USD; 1995 là 5198 triệu USD và 1996 là 7330 triệu USD. Hơn nữa, do xuất khẩu tăng khá đã tạo thêm công ăn việc làm, tạo long tin cho giới đầu tư bỏ tiền đầu tư nhiều hơn và giảm được áp lực các vấn đề về xã hội. Chương trình khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng: Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng gia tăng, nếu như trước năm 1991 hàng tiêu dùng của Việt Nam hết sức nghèo nàn và thiếu nghiêm trọng, các nhu cầu tiêu dùng bình thường của người dân như từ xà phòng, thuốc đánh răng hay vải vóc còn phải phân phối. Khi Đảng và chính phủ thực hiện chính sách mở cửa để khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng như nới lỏng chính sách ngoại thương thì hàng tiêu dùng ngoại tràn vào Việt Nam cũng làm cho nhu cầu về ngoại tệ để nhập khẩu tăng lên. Khuyến khích sản xuất lương thực: Lương thực đối với nước ta là một mặt hàng chiến lược, quốc kế dân sinh. Trong những năm trước 1990 sản xuất lương thực nước ta chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dung trong nước, hàng năm nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu lương thực cho nhu cầu của đất nước. Từ khi Chính phủ tập trung chỉ đạo và có chính sách khuyến khích sản xuất lương thực thì nguồn lương thực của Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường quốc tế. Ngoài 3 chương trình kinh tế lớn tác động tích cực đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối thì chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam cũng như các nguồn chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền đơn phương khác đã làm cho ngoại tệ của nền kinh tế ngày một tăng. Về phía Ngân hàng Nhà nước: Là cơ quan được Nhà nước giao cho trọng trách quản lý nguồn ngoại tệ vào và ra của nền kinh tế, phục vụ đắc lực cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và xây dựng điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của Việt Nam. Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất với Chính phủ thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại NHNN để tập trung đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế trong những giai đoạn đầu còn khó khăn và can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Đồng thời, năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng cho thị trường ngoại hối Việt Nam, đó là việc Thống đốc NHNN ra Quyết định số 107-NH/QĐ ngày 16 tháng 8 năm 1991 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ (TTGDNT). Trên cơ sở Quy chế này, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại TP.HCM và Hà Nội lần lượt ra đời vào tháng 8 và tháng 11/1991. Những nội dung chính của Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ như sau: Tỷ giá áp dụng trong KD của các ngân hàng được phép: Có thể nói, việc thành lập quỹ điều hòa ngoại tệ tại NHNN và Chính phủ ủy quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành một cách linh hoạt đã làm dịu những biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường. NHNN đã sử dụng quỹ điều hòa một cách rất linh hoạt và hiệu quả, một mặt Quỹ điều hòa tạo cho NHTW một lực thực sự để can thiệp có hiệu quả nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế về ngoại tệ. Việc thành lập hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống Ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của thị trường ngoại hối Việt Nam ngày nay. Thông qua hoạt động mua bán tại hai Trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Việc các NHTM và các tổ chức kinh tế có hoạt động ngoại tệ lớn giao dịch tại hai Trung tâm là bước tập dượt đầu tiên trong giao dich bán ngoại tệ theo cơ chế thị trường. Tỷ giá VND/USD được hình thành theo quan hệ cung cầu một cách tương đối khách quan. Cách thức giao dịch mua bán ngoại tệ tại hai Trung tâm theo phương thức đấu giá. Khi cung lớn hơn cầu, thì tỷ giá giảm và ngược lại. Trong thời kỳ đầu, cung ngoại tệ còn thấp hơn cầu ngoại tệ khá lớn, nếu tỷ giá hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu, thì tỷ giá sẽ biến động rất mạnh, điều này sẽ gây tác động tiêu cực đến hệ thống giá cả, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư. Vì vậy, thông qua hình thức can thiệp của NHNN, tỷ giá chỉ biến động với một mức độ hợp lý, một mặt vẫn phản ánh xu hướng quan hệ cung cầu nhưng mặt khác không gây những biến động lớn về mức giá cả, đồng thời tạo một tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng yên tâm đầu tư và gửi tiền để phát triển kinh tế. Sau một thời gian dài từ 1991 đến 1993, tỷ giá được duy trì ổn định đã tạo tâm lý ổn định cho thị trường và thu hút được một lượng kiều hối và đầu tư nước ngoài khá lớn vào Việt Nam; mặt khác việc duy trì lãi suất thực dương của VND cao đã khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ để gửi bằng VND. Cả hai yếu tố trên đã đồng thời ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định giá trị VND và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Sự ổn định giá trị VND không phải chỉ về danh nghĩa mà cả giá trị thực của nó. Việc ổn định tỷ giá có ảnh hưởng tốt đến mặt bằng giá trong nước dẫn đến chỉ số lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều hướng giảm, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm không ngừng tăng làm cho quan hệ tiền hàng được bảo đảm và giá VND được ổn định và đã tạo ra môi trường ổn định vững chắc vĩ mô cho phát triển kinh tế Việt Nam. Giai đoạn đầu khi mới bắt đầu điều hành tỷ giá theo cơ chế thị trường, việc can thiệp của NHNN trên thị trường rất chặt chẽ, tuy nhiên thời gian tiếp theo khi nguồn ngoại tệ vào Việt Nam tăng lên, quan hệ cung cầu ngoại tệ không còn khoảng cách quá lớn thì NHNN đã từng bước giảm sự can thiệp và để cho tỷ giá hình thành một cách khách quan hơn theo quan hệ cung cầu. Tỷ giá chính thức VND trước đây được NHNN tính toán trên cơ sở kinh tế mang tính chất tĩnh chưa phản ánh quan hệ cung cầu và các yếu tố thị trường khác. Từ khi hai Trung tâm ra đời thì tỷ giá chính thức của VND được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch tại hai Trung tâm, do đó tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, rút ngắn được khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường ngầm. Từ đây, có thể nói thị trường ngoại hối có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường ngầm. Kể từ khi Thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng được thành lập, NHNN là người mua bán cuối cùng khi cung cầu ngoại tệ mất cân dối lớn, đồng thời NHNN chỉ mua bán trực tiếp với các NHTM và các NHTM mua bán trực tiếp với khách hàng.Mặt khác, nếu để Trung tâm giao dịch tồn tại song song với Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thi việc thực hiên chính sách tỷ giá sẽ không được đồng bộ giữa Trung tâm và Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Từ hoạt động thực tế của hai Trung tâm, những tín hiệu tích cực từ hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và nhu cầu phát triển một thị trường ngoại hối hoàn chỉnh ở Việt Nam, Thống đốc NHNN đã quyết định chấm dứt hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và TP.HCM từ ngày 1/12/1994. 3. Thời kỳ 1994- đến nay Thay đổi trong quy chế hoạt động của TTNTLNH Sau thời gian hoạt động từ tháng 10/1994 đến tháng 4/1999, trước những thay đổi về tổ chức và hoạt động ngân hàng nói chung, đặc biệt là khi Luật NHNN và Luật các TCTD được ban hành vào tháng 12/1997, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển TTNTLNH ở trình độ cao hơn. Chặt chẽ hơn, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN 13, ngày 26/3/1999 về Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH thay thế cho quyết định số 203/QĐ-NH13, ngày 20/9/1994. Những nội dung thay đổi giữa QĐ 101 và QĐ 203 như sau: Tiêu chí  QĐ số 203, ngày 20/9/94  QĐ số 101,ngày 26/3/99   1.Điều kiện t