Thiết kế nhà máy nhiệt điện công suất 750MW

Quá trình phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp nước ta đang đặt ra yêu cầu về năng lượng rất lớn. Ở nước ta, ngoài việc sử dụng các nguồn năng lượng sơ cấp trong các ngành công nghiệp và đời sống thì năng lượng điện là dạng năng lượng được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Vì vậy, ngày càng nhiều các nhà máy điện mọc lên ở khắp mọi nơi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phụ tải. Với việc thay thế dần nguyên liệu truyền thống của nhà máy nhiệt điện từ than đá sang dầu mỏ và khí đốt thì sự phát triển của các nhà máy nhiệt điện trong tương lai là rất lớn. Trong kỳ này nhóm chúng em được giao đề tài thiết kế nhà máy nhiệt điện 750MW, nhiên liệu khí đồng hành cũng xuất phát từ thực tế đó. Được sự hướng dẫn, giúp đỡ rất nhiệt tình của thầy giáo TS. Trần Thanh Sơn, các Thầy Cô trong khoa Công Nghệ Nhiệt – Điện Lạnh và cùng với sự đoàn kết, nổ lực học tập nghiên cứu của cả nhóm đã hoàn thành được đồ án một cách nghiêm túc và đúng thời hạn. Tuy nhiên, vì kiến thức có hạn, nên chúng em không tránh khỏi những sai sót trong khi thực hiện. Chúng em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo quý báu của các Thầy, các Cô trong bộ môn để đồ án của chúng em có thể được hoàng chỉnh tốt nhất.

doc67 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4930 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thiết kế nhà máy nhiệt điện công suất 750MW, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Quá trình phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp nước ta đang đặt ra yêu cầu về năng lượng rất lớn. Ở nước ta, ngoài việc sử dụng các nguồn năng lượng sơ cấp trong các ngành công nghiệp và đời sống thì năng lượng điện là dạng năng lượng được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Vì vậy, ngày càng nhiều các nhà máy điện mọc lên ở khắp mọi nơi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phụ tải. Với việc thay thế dần nguyên liệu truyền thống của nhà máy nhiệt điện từ than đá sang dầu mỏ và khí đốt thì sự phát triển của các nhà máy nhiệt điện trong tương lai là rất lớn. Trong kỳ này nhóm chúng em được giao đề tài thiết kế nhà máy nhiệt điện 750MW, nhiên liệu khí đồng hành cũng xuất phát từ thực tế đó. Được sự hướng dẫn, giúp đỡ rất nhiệt tình của thầy giáo TS. Trần Thanh Sơn, các Thầy Cô trong khoa Công Nghệ Nhiệt – Điện Lạnh và cùng với sự đoàn kết, nổ lực học tập nghiên cứu của cả nhóm đã hoàn thành được đồ án một cách nghiêm túc và đúng thời hạn. Tuy nhiên, vì kiến thức có hạn, nên chúng em không tránh khỏi những sai sót trong khi thực hiện. Chúng em rất mong được sự góp ý, chỉ bảo quý báu của các Thầy, các Cô trong bộ môn để đồ án của chúng em có thể được hoàng chỉnh tốt nhất. Tập thể nhóm 11 chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn, các Thầy Cô trong khoa CN Nhiệt – Điện Lạnh đã giúp đỡ chúng em rất nhiều trong quá trình thực hiện đồ án này. Đà Nẵng, ngày 15 tháng 02 năm 2012 Nhóm sinh viên thực hiện: (Nhóm 11) Trần Ngọc Quảng – Nhóm Trưởng Bùi Văn Pháp – Thành viên Trà Xuân Nhật – Thành viên Huỳnh Quốc – Thành viên Nguyễn Văn Quỳnh – Thành viên CHƯƠNG 1 ĐỀ XUẤT VÀ CHỌN PHƯƠNG ÁN 1.1. Giới thiệu sơ lược về điện năng. Năng lượng mà chủ yếu là điện năng đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Dựa vào khả năng sản xuất và lượng tiêu thụ điện năng mà ta có thể đánh giá chung được sự phát triển ngành công nghiệp nước đó. Điện năng được sản xuất ở nhiều nơi trên thế giới bằng nhiều cách khác nhau như nhà máy thủy điện (NTĐ), nhà máy điện thủy triều, nhà máy điện địa nhiệt, nhà máy điện nguyên tử (NNT), nhà máy phong điện, nhà máy điện dùng năng lượng mặt trời,... Hiện nay phổ biến nhất là nhà máy nhiệt điện, ở đó nhiệt năng thoát ra khi đốt các nhiên liệu hữu cơ (than, dầu, khí...) được biến đổi thành điện năng. Trên thế giới điện năng được sản xuất từ nhà máy nhiệt điện chiếm khoảng 70% điện năng thế giới, riêng ở nước ta lượng điện năng do các nhà máy nhiệt điện sản xuất ra chiếm một tỷ lệ chủ yếu trong tổng số điện năng trên toàn quốc. Nhưng đối với mỗi quốc gia trên thế giới thì việc sản xuất ra điện năng còn tùy thuộc vào nguồn năng lượng sẵn có, điều kiện kinh tế và cũng như sự phát triển khoa học kỹ thuật. 1.2. Sự cần thiết phải xây dựng nhà máy điện. Sau hòa bình lập lại năm 1945 chúng ta tiếp quản một số nhà máy điện cũ của thực dân Pháp xây dựng trong thời gian xâm lược nước ta, các nhà máy này có công suất thực tế khoảng 30.000KW. Các nhà máy này được xây dựng ở các thành phố và các khu mỏ, với các công suất nhỏ, hiệu suất thấp và thiết bị loại cũ. Từ đó cho đến năm 1975 chúng ta đã xây dựng thêm nhiều nhà máy điện nhưng công suất vẫn còn nhỏ, mặt khác cũng trong thời gian đó do cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc bởi đế quốc Mỹ gây ra, cho nên đa số các nhà máy điện đều bị oanh tạc và hư hỏng nặng. Hiện nay chúng ta có nhiều nhà máy có công suất lớn hơn ngoài nhà máy nhiệt điện ra còn có các nhà máy thủy điện, mặc dù vậy lượng điện năng sản xuất ra để cung cấp cho cả nước vẫn còn thiếu nhiều. Trước sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, cũng như sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đây là một vấn đề lớn mà mỗi quốc gia trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng cần có biện pháp giải quyết làm sao cho chúng ta không bị tụt hậu so với các nước khác. Nhờ sự phát triển một cách vượt bậc của khoa học kỹ thuật, từ đó ta có thể áp dụng vào mà nâng cao các thông số làm việc và độ tin cậy làm việc của các thiết bị, từ đó nâng cao hiệu suất của nhà máy điện. Từ các vấn đề đó đòi hỏi mỗi sinh viên của Khoa Công Nghệ Nhiệt Điện - Lạnh cần phải tìm hiểu nghiên cứu và làm quen với các thiết bị sản xuất ra điện năng để sau này có thể tự thiết kế, vận hành, sửa chữa các thiết bị trong nhà máy nhiệt điện. Và cũng để góp một phần trí tuệ vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, có uy tín trên thế giới. . Vài nét về khí đồng hành. Khí đồng hành (associated gas) là khí tự nhiên  được tìm thấy cùng dầu thô, có thể ở dạng hoà lẫn với dầu thô hoặc tạo thành không gian phía trên lớp dầu thô trong mỏ dầu. Khí đồng hành khi được tách khỏi dầu thô là hỗn hợp chủ yếu gồm etan (C2H6), propan (C3H8), butan (C4H10) và pentan (C5H12). Ngoài ra còn những tạp chất không mong muốn như nước, sunlfua hidro (H2S), CO2, Helium (He), Nito (N2) và một số tạp chất khác. Trong quá khứ loại khí này là thành phần không mong muốn và thường bị đốt bỏ. Kể cả tới năm 2003, việc đốt bỏ vẫn ở khối lượng lớn, hàng ngày có đến 10-13 tỷ feet khối trên toàn thế giới. Tuy nhiên, với tiến bộ của công nghệ, giá thành dầu thô và khí tự nhiên tăng lên và các ứng dụng của khí tự nhiên trở nên phổ biến, khí đồng hành được tận dụng và trở thành nguồn nguyên liệu mang lại hiệu quả cao. Năm 1947, ở Mỹ, hàng ngày khoảng 3 tỷ feet khối khí đồng hành bị đốt bỏ; đến năm 2002, con số này giảm 13 lần trong khi sản lượng khai thác cao hơn năm 1947. Nigeria là quốc gia có trữ lượng khí tự nhiên rất lớn, chiếm 30% trữ lượng toàn Châu Phi. Tuy vậy 75% khí đồng hành ở các mỏ dầu thường bị đốt bỏ một cách lãng phí. Chính phủ Nigeria đã ra một đạo luật quy định đến năm 2008, khí đồng hành sẽ không bị đốt nữa, các hãng dầu khí có trách nhiệm lắp đặt các thiết bị xử lý khí để tận dụng nguồn tài nguyên này . * Các giải pháp sử dụng khí đồng hành: Bơm ngược trở lại giếng dầu để thu hồi sau này khi có giải pháp kinh tế hơn đồng thời duy trì áp lực giếng để dầu tiếp tục tự phun lên. Chuyển hóa thành các sản phẩm khác (ví dụ metanol - CH3OH) để dễ chuyên chở hơn. Tách các tạp chất để có khí hóa lỏng tự nhiên rồi chuyển xuống bồn chứa Chuyến hóa thành các hợp chất (ví dụ metanol) làm nguyên liệu cho công nghiệp hóa dầu. Vận chuyển bằng đường ống tới nhà máy xử lý khí. Và một giải pháp hiện nay rất có tiềm năng là dùng khí đồng hành làm nhiên liệu đốt cho lò hơi nhằm tạo ra điện. * Tình hình sử dụng khí đồng hành ở Việt Nam: Ở Việt Nam, dầu thô được khai thác ở quy mô công nghiệp từ năm 1986 nhưng khí đồng hành vẫn bị đốt bỏ ngay tại chổ cho đến năm 1997. Hình ảnh những ngọn lửa rực sáng trên các dàn khoan trong đêm đã một thời là hình ảnh nổi tiếng và có phần tự hào về ngành công nghiệp còn non trẻ của Việt Nam. Việc xử lý khí đồng hành với khối lượng lớn cần một lượng máy móc đồ sộ mà điều kiện khai thác trên biển thì không cho phép thực hiện. Giải pháp triệt để là đặp đường ống dẫn và đưa số khí đó vào bờ. Năm 1997 hệ thống xử lý khí đồng hành của Việt Nam bắt đầu vận hành, hằng năm đưa khoảng 1 tỷ m3 vào bờ, cung cấp khí hóa lỏng, dung môi pha xăng, là nhiên liệu đốt cho các nhà máy, trung tâm nhiệt điện. 1.4. Địa điểm đặt nhà máy. - Læûa choün âëa âiãøm âàût nhaì maïy âiãûn ngæng håi phaíi baío âaím âiãöu kiãûn laìm viãûc âënh mæïc, chi phê âãø xáy dæûng vaì váûn haình beï nháút. Hiãûn nay trãn thãú giåïi vaì cuîng nhæ næåïc ta nhiãöu nhaì maïy âiãûn låïn duìng khí đồng hành làm chất đốt. Khí đồng hành thường được dẩn về từ các dàn khoan trên biển bằng ống dẫn khí. Do đó khi thiết kế NMNĐ cần lưu ý vấn đề này, nên chọn vị trí của nhà máy sao cho hạn chế chiều dài ống dẫn càng ngắn càng tốt. - Gần nguồn cung cấp nước là một yêu cầu quan trọng khi lựa chọn địa điểm đặt nhà máy nhiệt điện ngưng hơi, bởi vì lượng nước tiêu hao để làm lạnh hơi thoát rất lớn, do đó nếu như phải đưa nước với khoảng cách xa và cao thì vốn đầu tư xây dựng và chi phí vận hành rất đắt. - Khi xây dựng nhà máy điện đòi hỏi có một mặt bằng lớn, cho nên phải có diện tích và kích thước đầy đủ. Đối với nhà máy nhiệt điện ngưng hơi đốt bằng nhiên liệu rắn thì cần phải có một khu vực ở gần nhà máy để chứa than, thu nhận tro và xỉ, khu vực nhà ở của công nhân và cán bộ kỹ thuật cũng được xây dựng không xa nhà máy nhưng mà phải bảo đảm có môi trường trong sạch. Địa hình diện tích phải bằng phẳng, độ dốc, tuyến đường nối từ đường sắt và ôtô chính tới nhà máy phải thuận lợi, khoảng cách đó không xa nhà máy. - Ở nước ta, khí đồng hành phân bố chủ yếu ở bể Cửu Long với trữ lượng 58,4 tỉ m3 (15%) tập trung trong các mỏ dầu lớn: Bạch Hổ, Rạng Đông, Hồng Ngọc và các mỏ dầu – khí: Emerald, Sư Tử Trắng. Ngoài ra một lượng khí đồng hành rất nhỏ (3%) còn phân bố trong các mỏ khí – dầu như: Bunga Kekwa – Cái Nước, Bunga Raya thuộc về Malay – Thổ Chu. 1.5. Đề xuất và chọn phương án: Với đề tài “ thiết kế nhà máy nhiệt điện công suất 750 MW đốt khí đồng hành ” ta có thể có nhiều phương án, qua đó chọn ra một phương án tối ưu nhất. 1.5.1. Phương án 1: Đặt 5 tổ máy có công suất 150 MW Việc đặt 5 tổ máy như vậy sẽ chiếm khá lớn về tổng mặt bằng diện tích, do việc bố trí nhiều thiết bị cho mỗi tổ máy. Mặt khác do có nhiều tổ máy vận hành nên cần phải có nhiều công nhân, cán bộ kỹ thuật vận hành dẫn đến chí phí cho việc trả lương nhân viên tăng lên. Chi phí bảo dưởng các thiết bị hàng năm tăng và chi phí cho việc xây dựng giao thông (đường xe chạy, đường sắt) cũng như giá tiền nhiên liệu tăng lên do phải có thêm các hệ thống xử lý, chưng cất và hệ thống xử lý khói thải ra môi trường theo đúng tiêu chuẩn. Với 5 tổ máy thì khả năng vận hành và bảo đảm cho việc cung cấp đủ điện năng lên mạng lưới điện, nếu một trong 5 tổ máy bị hư hỏng thì còn có 4 tổ máy còn lại chạy tăng công suất lên một chút để kịp thời sửa chữa. Việc điều chỉnh phụ tải dễ dàng dẫn đến tự động hóa cao, khả năng thay thế các thiết bị trong nhà máy khi có hư hỏng thì dễ dàng do các thiết bị đều có cùng kích cỡ. Gọi K1 là chi phí vốn đầu tư ban đầu của phương án 1. S1 là phí tổn vận hành hằng năm của phương án 1. 1.5.2. Phương án 2: Đặt hai tổ máy có công suất 2 x 300MW và 150MW. Theo phương án này thì ta có 3 tổ máy như vậy thì mặt bằng phân bố các thiết bị sẽ chiếm diện tích ít hơn phương án 1, nên tổng mặt bằng của cả nhà máy cũng nhỏ hơn so với phương án trên. Ở phương án này có đến hai tổ máy với công suất khác nhau cùng vận hành nên cần phải có nhiều công nhân, cán bộ kỹ thuật vận hành dẫn đến chí phí cho việc trả lương nhân viên tăng lên. Chi phí bảo dưởng các thiết bị hàng năm tăng và chi phí cho việc xây dựng giao thông (đường xe chạy, đường ống dẫn khí đồng hành,..) cũng như tốn chi phí cho hệ thống xử lý khói thải ra môi trường theo đúng tiêu chuẩn. Giá tiền nhiên liệu và phí tổn vận chuyển nhiên liệu vẫn còn lớn do có quá nhiều thiết bị khác nhau cùng làm việc trong nhà máy (lò hơi, cung cấp nước, turbine,...) Với 3 tổ máy thì khả năng vận hành và bảo đảm cho việc cung cấp đủ điện năng lên mạng lưới điện. Việc điều chỉnh phụ tải gặp nhiều khó khăn, khả năng thay thế các thiết bị trong nhà máy khi có hư hỏng cũng khó do các thiết bị làm việc trong nhà máy có các kích cỡ khác nhau. Độ tin cậy và hiệu suất nhà máy còn chưa cao. Gọi K2 là chi phí vốn đầu tư ban đầu của phương án 2. S2 là chi phí vận hành hằng năm của phương án 2. 1.5.3. Phương án 3: Đặt 1 tổ máy có công suất 770MW. Việc đặt 1 tổ máy như vậy thì mặt bằng phân bố các thiết bị sẽ chiếm diện tích ít hơn nên tổng mặt bằng của cả nhà máy cũng nhỏ hơn so với cả hai phương án trên. Ở phương án này do chỉ có 1 tổ máy vận hành nên không cần phải có nhiều công nhân, cán bộ kỹ thuật vận hành dẫn đến chí phí cho việc trả lương nhân viên giảm xuống rất đáng kể. Chi phí bảo dưởng các thiết bị hàng năm và chi phí cho việc xây dựng giao thông (đường xe chạy, đường dẫn khí đồng hành) cũng như giá tiền nhiên liệu giảm do các thiết bị có độ tin cậy và hiệu suất nhà máy cao hơn. Vốn đầu tư cho việc mua sắm các thiết bị ban đầu lớn do những thiết bị này làm việc với các thông số cao hơn so với hai phương án trên. Khả năng vận hành và bảo đảm cho việc cung cấp đủ điện năng lên mạng lưới điện. Việc điều chỉnh phụ tải dễ dàng nên mức độ tự động hóa cao, khả năng thay thế các thiết bị trong nhà máy khi có hư hỏng dễ dàng hơn do chỉ có một loại thiết bị làm việc trong nhà máy. Gọi K3 là chi phí vốn đầu tư ban đầu của phương án 3. S3 là chi phí vận hành hằng năm của phương án 3. 1.6. Tính chọn phương án: 1.6.1. Tính chi phí vận hành hằng năm. Chi phí vận hành hằng năm của các thiết bị như sau: S = SA + SB + Sn + S0 , đồng/năm. Trong đó: SA : chi phí cho khấu trừ hao mòn và sữa chữa. SB : chi phí cho nhiên liệu. Sn : chi phí cho việc trả lương cán bộ công nhân viên. S0 : chi phí công việc chung của nhà máy và tất cả các chỉ tiêu khác. 1.6.2. Chi phí cho nhiên liệu: SB = C.B, [đồng/năm] Trong đó: C : giá thành một tấn khí. C = 60.106 đồng/tấn = 60.103 đồng/ kg B : lượng nhiên tiêu tốn trong một năm. B = b.N.n Với b suất tiêu hao nhiên liệu tiêu chuẩn để sản xuất ra 1 kWh điện Hay với b: suất tiêu hao khí để sản xuất 1 kWh điện. Chọn: b1 = 0,3 [kg/kWh] : Ứng với phương án 1. b2 = 0,27 [kg/kWh] : Ứng với phương án 2. b3 = 0,25 [kg/kWh] : Ứng với phương án 3. Vậy chi phí nhiên liệu cho các phương án: sB1 = 60.103.750.6000.0,3 = 80,1.109 đồng/năm sB2 = 60.103.750.6000.0,27 = 72,9. 109 đồng/năm sB3 = 60.103.770.6000.0,25 = 69,3. 109 đồng/năm 1.6.3. Chi phí cho khấu trừ hao mòn và sữa chữa. SA = PA.K; [đồng/năm] Trong đó: PA= 6%: Phần khấu hao thiết bị và sửa chữa. K: vốn đầu tư thiết bị nhiệt của các phương án; [đồng] Giả sử vốn đầu tư thiết bị nhiệt của ba phương án là: K1 = 30000.109 đồng. K2 = 25000.109 đồng. K3 = 20000.109 đồng. Thì ta có: SA1 = 0,06.30000.109 = 1800.109 đồng/năm. SA2 = 0,06.25000.109 = 1500.109 đồng/năm. SA3 = 0,06.20000.109 = 1200.109 đồng/năm. 1.6.4. Chi phí trả lương cho công nhân. Sn = Z.N.n; [đồng/năm] Trong đó: Z: tiền lương trung bình một người trong 1 năm. Giả sử mỗi tháng cán bộ công nhân viên nhận lương trung bình một người là 4.106 đồng/tháng. Thì : Z = 4.106.12 = 48.106 đồng/năm. N = 750MW: công suất của nhà máy. n: hệ số biên chế của công nhân ứng với từng phương án và công suất của tổ máy. Giả sử : n1= 1,56người/MW ứng với 5 tổ máy 150MW. n2= 1,54người/MW ứng với 2 tổ máy 300MW và 1 tổ máy 150MW. n3= 1,4người/MW ứng với 1 tổ máy 770MW. Þ Chi phí trả lương cho cán bộ công nhân viên từng phương án là: Sn1 = 48.106.750.1,56 = 56,16.109đồng/năm. Sn2 = 48.106.750.1,54 = 55,44.109đồng/năm. Sn3 = 48.106.770.1,4 = 51,74.109 đồng/năm. 1.6.5. Phí tổn chung. S0 = a(SA + Sn),đồng/năm. Trong đó: a = 27%: hệ số khấu hao. SA : chi phí khấu hao và sửa chữa. Sn : chi phí trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên. Þ S0 của mỗi phương án là: S01 = a (SA1 + Sn1) = 0,27.( 1800.109 +56,16.109) = 501.109 đồng/năm. S02 = a (SA2 + Sn2) = 0,27.( 1500.109+55,44.109) = 420.109 đồng/năm. S03 = a (SA3 + Sn3) = 0,27.( 1200.109+ 51,74.109) = 338.109 đồng/năm. Vậy chi phí vận hành hằng năm của từng phương án là: S1 = SB1 + SA1 + Sn1 + S01 = 80,1.109 + 1800.109 + 56,16.109 + 501.109 = 2437,26.109 đồng/năm. S2 = SB2 + SA2 + Sn2 + S02 = 72,9. 109 + 1500.109+ 55,44.109+ 420.109 = 2048,34.109 đồng/năm. S3 = SB3 + SA3 + Sn3 + S03 = 69,3. 109 + 1200.109 + 51,74.109 + 338.109 = 1659,04.109 đồng/năm. Qua tính toán ta thấy phương án 3 có vốn đầu tư và chi phí vận hành hàng năm nhỏ nhất trong 3 phương án nên ta chọn phương án 3 là đặt 1 tổ máy mỗi tổ có công suất 770MW cho nhà máy nhiệt điện ngưng hơi đang thiết kế. Dùng khí đồng hành với nhiệt trị nhiên liệu là Qlvt = 29500kJ/kg. CHƯƠNG 2 THÀNH LẬP VÀ TÍNH TOÁN SƠ ĐỒ NHIỆT 2.1. Xây dựng sơ đồ nhiệt nguyên lý của nhà máy. Sơ đồ nhiệt nguyên lý xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghệ biến đổi nhiệt năng trong nhà máy điện. Nó bao gồm các thiết bị chính và phụ. Các đường hơi và các đường nước nối chung vào một khối trong một quá trình công nghệ. Các thành phần trong sơ đồ nhiệt nguyên lý bao gồm: lò hơi tuần trực lưu, tuabin ngưng hơi, 3 thân, đồng trục (K-770-170), máy phát điện, bình ngưng, các bình gia nhiệt cao áp, hạ áp, thiết bị khử khí, bơm nước cấp, bơm nước đọng, bơm nước ngưng. Các đường ống dẫn hơi đến các bình gia nhiệt, đường nước ngưng chính, đường nước ngưng đọng. Đặc tính kỹ thuật của tuabin K-770-170: Công suất định mức: 770MW Tốc độ: 3000 v/p Áp suất hơi đầu vào: 170kg/cm2 (166bar) Nhiệt độ hơi mới: 5380C Số cửa trích: 7 Nhiệt độ hơi quá nhiệt trung gian: 5380C Nhiệt độ nước cấp: 2650C Lưu lượng hơi tuabin: G = 2180 T/h Cửa trích I II III IV V VI VII P (bar) 37.2 19.3 11 6.2 4.1 1 0.5 t (0C) 325 457 353 305 257 135 84 i (kj/kg) 3021 3373 3163 3070 2977 2745 2617 Bảng 1: Dẫn ra các hiệu suất của các phần tuabin chính như sau: Sơ đồ nhiệt nguyên lý Trong đó: LH : Lò hơi có bao hơi. BQN : Bộ quá nhiệt. QNTG : Bộ quá nhiệt trung gian. CA : Tầng cao áp. TA : Tầng trung áp. HA : Tầng hạ áp. BN : Bình ngưng. BNN : Bơm nước ngưng. LE : Bình làm lạnh Ejectơ. LC : Bình làm lạnh hơi chèn. HA 4, 5, 6, 7 : Các bình gia nhiệt hạ áp 4, 5, 6, 7. CA 1,2,3 : Các bình gia nhiệt cao áp 1, 2, 3. BNC : Bơm nước cấp. BNĐ : Bơm nước đọng. KK : Thiết bị khử khí. GNBS : Gia nhiệt nước bổ sung. BPL : Phân li hơi. GOA : Bộ giảm ôn, giảm áp. * Diễn giải sơ đồ nhiệt nguyên lý : Trong toàn bộ nhà máy 750MW bao gồm 1 khối mỗi khối 770MW gồm có: lò hơi trực lưu, tua bin ngưng hơi một trục K-770-170 có 3 xilanh. Hơi quá nhiệt từ lò hơi được dẫn đến phần cao áp của tuabin sẽ giãn nở sinh công, sau khi ra khỏi phần cao áp hơi được quá nhiệt trung gian một lần nữa rồi tiếp tục giãn nở trong phần trung áp và hạ áp của tuabin. Trên tuabin có 7 cửa trích gia nhiệt cho nước ngưng, nước cấp và thiết bị khử khí. Phần hơi còn lại sau khi ra khỏi phần hạ áp của tuabin được đưa vào bình ngưng, tại đây hơi được ngưng tụ thành nước ngưng nhờ nước tuần hoàn làm mát. Nước ngưng sau khi ra khỏi bình ngưng được bơm nước ngưng bơm qua bình làm lạnh Ejectơ sau đó qua các bình gia nhiệt hạ áp rồi dồn về thiết bị khử khí. Nước ngưng sau khi được khử khí sẽ được chứa trong bể khử khí, sau đó được bơm nước cấp đưa qua các bình gia nhiệt cao áp làm tăng nhiệt độ trước khi đưa vào lò hơi. Hơi từ các cửa trích của tuabin gia nhiệt cho nước ngưng, nước cấp bao gồm: hai cửa trích ở phần cao áp được gia nhiệt cho bình gia nhiệt cao áp số 1, số 2; ba cửa trích ở phần trung áp được gia nhiệt cho bình cao áp số 3 và bình khử khí, bình gia nhiệt hạ áp số 4, số 5 và hai cửa trích phần hạ áp gia nhiệt cho bình hạ áp 6 và số 7. Ở thiết bị khử khí do hơi được trích từ cửa trích có áp suất cao nên được đưa qua thiết bị giảm ôn giảm áp để hạ nhiệt độ và áp suất xuống phù hợp với yêu cầu. Hơi ở các cửa trích của tuabin sau khi gia nhiệt cho nước ngưng, nước cấp thì sẽ ngưng tụ thành nước đọng. Sơ đồ dồn nước đọng ở các bình gia nhiệt được chọn ở đây là sơ đồ dồn cấp phối hợp với bơm: vừa dồn cấp ,vừa bơm đẩy về đường nước chính. Ở các bình gia nhiệt cao áp (CA) nước đọng được dồn từ CA1 ® CA2 ® CA3 do độ lệch về áp suất, sau đó nước đọng được dồn vào bình khử khí. Ở các bình gia nhiệt hạ áp thì nước đọng được dồn từ bình gia nhiệt hạ áp HA4 ® HA5® HA6 rồi dùng bơm nước đọng dồn về điểm hỗn hợp trên đường nước ngưng chính phía đầu ra của bình gia nhiệt hạ áp số 6. Nước đọng của bình gia nhiệt số 7, bình làm lạnh ejectơ được đưa về bình ngưng. 2.2. Các thông số hơi và nước đồ thị i - S biểu diễn quá trình làm việc của dòng hơi trong tua bin. * Khi hơi đưa vào tua bin, qua các van điều chỉnh, hơi bị tiết lưu, do đó áp suất của hơi trước tầng đầu của tua bin giảm đi khoảng 5% so với áp suất ban đầu P0 Nghĩa là: P0’ = 0,95 P0 Vậy áp lực trước tầng dầu tua bin: P’0 = 0,95. P0 = 0,95. 166 = 157,7 * Từ áp suất và nhiệt độ của hơi tại các cửa trích entanpi của hơi ứng với các cửa trích đó. * Áp suất làm việc tại bình gia nhiệt được lấy nhỏ hơn áp suất tại