Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam

Từ khi Nhà nớc ta chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trờng và định hớng xã hội chủ nghĩa; ở nớc ta xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nh: doanh nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp tnhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tnớc ngoài, các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ theo nghị định 66 HĐBT. Pháp luật cho phép các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng với nhau trên thơng trờng và tự do cạnh tranh với nhau. Đã có cạnh tranh tất nhiên sẽ dẫn đến xu hớng “ mạnh đợc yếu thua”. Khi một doanh nghiệp không còn đáp ứng đ ợc những đòi hỏi khắt khe, nghiệt ngã của thơng trờng, doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải. Trong nền kinh tế thị trờng với qui luật cạnh tranh, chọn lọc và đào thải đợc ví nhmột vòng đấu khốc liệt, trong đó các doanh nghiệp – chủ thể chính của các quan hệ kinh tế chính là các đối thủ không cân sức, kẻ mạnh thắng thế sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, còn những kẻ yếu hơn nếu không muốn bị đào thải và loại ra khỏi cuộc chơi phải chủ động tìm kiếm phơng án cơ cấu, tổ chức lại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Tuy vậy không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng thành công trong việc “tự cứu mình” mà cần phải có sự trợ giúp từ bên ngoài mới có thể thoát ra khỏi tình trạng bế tắc, và ngay cả những doanh nghiệp vững mạnh, có tiềm năng đôi khi cũng gặp khó khăn nghiêm trọng trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, phá sản là hiện tợng tự hiệu chỉnh bên trong của nền kinh tế thị trờng. Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đã làm ăn thua lỗ liên tiếp, chỉ còn “sống thoi thóp”. Thậm chí đã có những doanh nghiệp chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động, lẽ ra phải đợc Toà án tuyên bố phá sản những lại lựa chọn các phơng án khác nh: sáp nhập, hợp nhất, giải thể doanh nghiệp. Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993), đợc áp dụng vào thực tiễn kể từ ngày 1/7/1994, hiện có những bất cập bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: do Luật còn xa rời thực tiễn, không có tính khả thi, thiếu sự gắn kết, nhất quán giữa các quy định trong cùng văn bản cũng nhvới quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan. Có thể thấy những bất cập của Luật xuất hiện ở hầu hết các giai đoạn của thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp – từ khi yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp đến khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà án. Vì vậy, em đã chọn đề tài: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố “ phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam . ” Với mục đích là tìm hiểu sâu hơn và nâng cao trình độ nhận thức về pháp luật phá sản nói chung và cụ thể là thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Qua đó thấy đợc thực trạng – những điểm bất cập và hớng giải quyết những điểm bất cập ấy.

pdf32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3155 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … A Lời mở đầu– Từ khi Nhà nớc ta chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trờng và định hớng xã hội chủ nghĩa; ở nớc ta xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nh: doanh nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp t nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ theo nghị định 66 HĐBT... Pháp luật cho phép các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng với nhau trên thơng trờng và tự do cạnh tranh với nhau. Đã có cạnh tranh tất nhiên sẽ dẫn đến xu hớng “ mạnh đợc yếu thua”. Khi một doanh nghiệp không còn đáp ứng đợc những đòi hỏi khắt khe, nghiệt ngã của thơng trờng, doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải. Trong nền kinh tế thị trờng với qui luật cạnh tranh, chọn lọc và đào thải đợc ví nh một vòng đấu khốc liệt, trong đó các doanh nghiệp – chủ thể chính của các quan hệ kinh tế chính là các đối thủ không cân sức, kẻ mạnh thắng thế sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, còn những kẻ yếu hơn nếu không muốn bị đào thải và loại ra khỏi cuộc chơi phải chủ động tìm kiếm phơng án cơ cấu, tổ chức lại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Tuy vậy không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng thành công trong việc “tự cứu mình” mà cần phải có sự trợ giúp từ bên ngoài mới có thể thoát ra khỏi tình trạng bế tắc, và ngay cả những doanh nghiệp vững mạnh, có tiềm năng đôi khi cũng gặp khó khăn nghiêm trọng trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, phá sản là hiện tợng tự hiệu chỉnh bên trong của nền kinh tế thị trờng. Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đã làm ăn thua lỗ liên tiếp, chỉ còn “sống thoi thóp”. Thậm chí đã có những doanh nghiệp chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động, lẽ ra phải đợc Toà án tuyên bố phá sản những lại lựa chọn các phơng án khác nh: sáp nhập, hợp nhất, giải thể doanh nghiệp. Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993), đợc áp dụng vào thực tiễn kể từ ngày 1/7/1994, hiện có những bất cập bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: do Luật còn xa rời thực tiễn, không có tính khả thi, thiếu sự gắn kết, nhất quán giữa các quy định trong cùng văn bản cũng nh với quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan. Có thể thấy những bất cập của Luật xuất hiện ở hầu hết các giai đoạn của thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp – từ khi yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp đến khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà án. Vì vậy, em đã chọn đề tài: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố“ phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam . ” Với mục đích là tìm hiểu sâu hơn và nâng cao trình độ nhận thức về pháp luật phá sản nói chung và cụ thể là thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Qua đó thấy đợc thực trạng – những điểm bất cập và hớng giải quyết những điểm bất cập ấy. Bài viết hoàn thành đúng thời hạn, đợc tham khảo bởi một số văn bản qui phạm pháp luật và các tài liệu khác có liên quan; đăc biệt là đợc sự hớng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo Phạm Văn Luyện. Vì vậy, do “yếu tố SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … chủ quan” về nhận thức và kinh nghiệm tự bản thân còn hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Kính mong đợc sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy! Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2003. SV: Vũ Thị Vân Huyền. SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … B Nội dung– I Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.– 1 Phá sản.– 1.1 – Lý luận chung về phá sản. Phá sản, mặc dù đợc lý giải rất khác nhau về xuất xứ, song khái niệm phá sản đợc sử dụng để chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Phá sản – với tính chất là một hiện tợng có tính qui luật trong cơ chế kinh tế thị trờng, trong một thời gian dài đã đợc nhiều Nhà nớc khuyến khích vì hiểu theo nghĩa lợi ích chung của nền kinh tế thì đây là hiện tợng có ích, vì qua đó nó điều chỉnh lại cơ cấu nền kinh tế quốc dân thông qua việc “nhổ đi những cây cỏ dại trong vờn hoa đẹp”. Tuy nhiên sang những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, sự vận động của nền kinh tế phát triển và nền kinh tế thế giới làm cho nhiều quốc gia phải hoài nghi về lợi ích do phá sản đem lại. Quá trình phân công lao động ngày càng cao theo chiều rộng và chiều sâu ở mỗi thị trờng quốc gia và thị trờng toàn cầu đã làm tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Sự xuất hiện các công ty đa quốc gia cùng với quá trình toàn cầu hoá đã từng bớc xoá nhoà đờng biên giới về thị trờng giữa các quốc gia trên thế giới và vì vậy làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh nh vậy, phá sản không còn là công việc riêng của doanh nghiệp phá sản. Sự cho phép “rút lui một cách đột ngột” của một doanh nghiệp ra khỏi thơng trờng bằng cơ chế phá sản không phải bất cứ trờng hợp nào cũng là giải pháp đợc Nhà nớc lựa chọn sau khi đã cân nhắc đầy đủ và thận trọng các hệ quả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Để ngăn chặn và kiểm soát một cách có hiệu quả những hậu quả bất lợi của việc phá sản doanh nghiệp, cơ chế phá sản hiện đại đã chủ động can thiệp bằng pháp luật từ khi “doanh nghiệp có những dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản.” 1.2 – Phá sản và xử lí phá sản: Phá sản thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội phức tạp, liên quan đến nhiều đời sống xã hội. Vấn đề đầu tiên thấy nhng khó giải quyết ở mọi quốc gia - đó là vấn đề thất nghiệp của những ngời lao động trong doanh nghiệp bị phá sản, gây hậu quả khôn lờng cho xã hội. Nh vậy phá sản thuộc lĩnh vực xã hội. Mỗi khi một doanh nghiệp bị phá sản thì những doanh nghiệp bạn hàng cũng chịu ảnh hởng sấu theo kiểu dây truyền và đã gây ảnh hởng sấu đến tiến trình sản xuất của xã hội. Xét về mặt này thì phá sản thuộc lĩnh vực kinh tế. Phá sản còn liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, pháp luật. Vì mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản thì phải nhờ toà án xét sử các vụ tranh chấp về công nợ khi giữa chủ nợ và con nợ khônh hoà giải đợc với nhau. Nh xậy phá sản liên quan đến hình luật. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi khi bị thiếu vốn các doanh nghiệp thờng phải vay tiền của Ngân hàng hoặc các quỹ tín dụng và phải có SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … tài sản để thế chấp. Vậy phá sản liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng và luật cầm cố. Nếu vật cầm cố là bất động sản thì phá sản còn liên quan đến luật đất đai và kinh doanh nhà đất. ở mọi quốc gia mỗi công dân hay kiều dân muốn đứng ra kinh doanh một mặt hàng hay dịch vụ nào đấy, thì đều phải xin phép kinh doanh và phải chịu thuế theo luật định, còn khi bị phá sản thì phải báo cáo với cơ quan có trách nhiệm để khỏi phải nộp thuế và phải chịu các nghĩa vụ xã hội khác. Xét về mặt này thì phá sản liên quan đến Luật thơng mại và Luật thuế .… Mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản, thì số ngời thất nghiệp lại tăng lên. Vì vậy phá sản còn liên quan đến Luật lao động và bảo hiểm bảo đảm xã hội. Nh vậy phá sản là một hiện tợng kinh tế xã hội phức tạp, đó là tình tràng không có khả năng nộp thuế, không còn khả năng thanh toán công nợ trong một thời hạn quy định. Vậy nên đã có nhiều biện pháp khác nhau để sử lí các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Đối với những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài do đâù t từ trớc năm 1990 không đúng hớng, nhng cũng không có hớng chuyển đổi kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trờng thì cho phép bán đấu giá. Đối với những xí nghiệp có thể chuyển hớng hoạt động nhng tạm thời bị thua lỗ thì đợc hởng các chính sách u đãi và hỗ trợ cần thiết. Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng thanh toán, đã dùng nhiều biện pháp hỗ trợ nhng không vực dậy đợc thì có bốn quyết điịnh để xử lí theo quyết định 315- HĐBT theo trật tự: Sát nhập, cho thuê, nhợng bán và giải thể. Căn cứ vào tình hình sản xuất cụ thể, đòi hỏi phải chọn lọc và sắp xếp lại, phải có những phơng án sử lí đa dạng và thích hợp. Tuy vậy viẹc chon lọc và sắp xếp lại các xí nghiệp vẫn gặp nhiều lúng túng do thiếu những quy định và hớng dẫn cụ thể. Nhiều doanh nghiệp t nhân hoặc liên doanh với nớc ngoài cũng gặp những khó khăn về tài chính, mắc nợ hoặc không thanh toán đợc các khoản nợ đến hạn và đang đứng bên bờ phá sản. Vì vậy cần phải có một đạo luật phá sản áp dụng chung cho tất cả các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. 2- Pháp luật về phá sản. 2. 1- Sự cần thiết phải có luật phá sản ở Việt nam Nhà nớc chủ trơng thực hiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng; đồng thời cho phép các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động bình đẳng và tự do cạnh tranh lẫn nhau trên thị trờng. Cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đếỡnu hớng “ mạnh đợc- yếu thua”. Vì vậy hiện tợng phá sản các doanh nghiệp trong cơ chế thị trờnglà xu hớng tất yếu của quá trình cạnh tranh, đồng thời cũng là quá trình đào thải tự nhiên các doanh nghiệp yếu kém ra khỏi nền kinh tế, để hình thành các doanh nghiệp mới hoạt động có hiệu quả hơn. SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … Trớc năm 1993, đối với các doanh nghiệp bị phá sản hoặc đang đứng bên lề phá sản thì cha có một văn bản nào của nhà nớc quy định về phá sản và thủ tục phá sản. Vì vậy việc sử lý đối các doanh nghiệp đó gặp rất nhiều khó khăn. Việc sử lý các doanh nghiệp phá sản phải áp dụng những quy điịnh có tính chất hành chính trong các văn bản pháp quy hiện hành về giải thể xí nghiệp thì đỡ dẫn đến tuỳ tiện, xoá nợ để chốn tránh trách nhiệm, tham ô chia chác, Song việc áp dụng các quy định đó để xử lý phá sản doanh… nghiệp vừa dẫn đến các lại vừa không phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra có nhiều doanh nghiệp t nhân, cá nhân và nhóm kinh doanh do cha có luật pháp thích ứng để xử lý các trờng hợp vỡ nợ, nên nhiều trờng hợp đã phải tự xử lý theo “luật rừng”, gây nên rối loạn kinh tế và trật tự xã hội. Vì vậy việc ban hành kuật phá sản doanh nghiệp là rất cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp đợc đăng kí theo pháp luật hiện hành và đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, kể cả doanh nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Nó sẽ góp phần cùng với các biện pháp khác để lập lại trật tự lỷ cơng trong thanh toán nợ, thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngăn ngừa các hiện tợng tiêu cực, tuỳ tiện, làm ăn phi pháp. Tuy nhiên chỉ sau khi áp dụng các biện pháp cần thiết mà doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mới tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 2.2- Luật phá sản doanh nghiệp( 31/12/1993) Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và những ngời có liên quan, xác định trách nhiệm của doanh nghiệp mắc nợ khi giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quảvà đảm bảo trật tự, kỷ cơng xã hội: Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nớc CHXHCNVN năm 1992: Luật phá sản doanh nghiệp đã đợc Quốc hội nớc CHXHCNVN khoá IX, kỳ họp thứ t thông qua ngày 31/12 1993. Pháp luật phá sản là một tổng thể thống nhất các quy phạm pháp luật nhằm hớng đến việc giải quyết đúng đắn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong đó luật phá sản đống vai trò trung tâm vì nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc của trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nh: Phạm vi áp dụng của Luật, điều kiện mở thủ tục phá sản, trình tự và các giai đoạn của quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doang nghiệp, thứ tự yêu tiên thanh toán khi phân chia giá trị tài sản phá sản .… Pháp luật phá sản luôn là một hệ thống mở và luôn vận động cho phù hợp với các yêu cầu cho mỗi nền kinh tế trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Tuy nhiên sự hình thành nhanh chóng của các công ty xuyên quốc gia cùng với tiến trình toàn cầu hoá trong điều kiện hiện nay đang đòi hỏi các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận hiện tợng phá sản thống nhất, sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia để đảm bảo an ninh kinh tế chung trên cơ sở hạn chế đến mức tối đa những hậu quả bất lợi do phá sản đem lại. SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … Biết rằng, Luật phá sản áp dụng đối với những đôí tợng nào là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nớc: Luật phá sản của Anh, Mĩ, úc áp dụng cho tất cả các cá nhân, pháp nhân bất luận là nhà kinh doanh hay không là nhà kinh doanh nếu không thanh toán đợc nợ đến hạn đều có thể tuyên bố phá sản. Luật phá sản Liên Bang Nga áp dụng chỉ với nhà kinh doanh, gồm doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh mới có thể bị tuyên bố phá sản. Riêng ở Việt Nam, Luật phá sản thể hiện rõ đặc trng về đối tợng áp dụng của nó qua tên gọi: “Luật phá sản doanh nghiệp”. Nh vậy chỉ doanh nghiệp mới chịu sự chi phối của Luật phá sản. Sở dĩ có qui định nh vậy là khi xây dựng Luật phá sản chúng ta cho rằng nên tập trung sự quan tâm và các đối tợng là các doanh nghiệp, bởi lẽ đây là chủ thể kinh doanh chủ yếu trên thơng trờng, hơn nữa Toà án kinh tế mới đợc thành lập nên ngại rằng việc đa ra tất cả các cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66 – HĐBT vào đối tợng điều chỉnh của Luật phá sản thì Toà án kinh tế không thể giải quyết đợc khối lợng công việc đồ sộ này. Tuy nhiên, việc đa Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đi vào thực tiễn cuộc sống là vấn đề hoàn toàn mâu thuẫn với quan điểm xây dựng luật. Số vụ việc yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp so với thực tế là quá ít. Luật có hiệu lực từ năm 1994, trong 6 năm thực hiện, tính đến năm 2000, trên toàn quốc, các Toà án mới chỉ giải quyết cha đầy 100 vụ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong đó số vụ ra quyết định bởi Toà án lại càng ít. Sở dĩ có tình trạng đó là do rất nhiều nguyên nhân, mà không thể nói đến nguyên nhân từ Luật. Tuy vậy, với tính cách là một bộ phận pháp luật trong pháp luật về “môi trờng kinh doanh”, pháp luật phá sản có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với các chủ thể kinh doanh mà còn đối với toàn bộ trật tự kinh tế xã hội nói chung. Vai trò đó đợc thể hiện ở những mặt sau: - Pháp luật phá sản trớc hết là công cụ bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của chính doanh nghiệp mắc nợ. - Pháp luật phá sản là công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. - Pháp luật về phá sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích ngời lao động. - Pháp luật phá sản góp phần bảo vệ trật tự kỉ cơng của xã hội. Nh vậy Luật phá sản doanh nghiệp (21/12/1998) ra đời và đợc áp dụng vào thực tiễn, bên cạnh những vai trò to lớn vẫn còn những điểm bất cập gây khó khăn đối với các cơ quan Nhà nớc khi xét xử. 2.3 Một số văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến phá sản– doanh nghiệp. - Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của chính phủ hớng dẫn thi hành Luật phá sản DN. - Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của chính phủ về giải quyết quyền lợi của ngời lao động trong doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … - Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 của chính phủ về sửa đổi và bổ xung một số điều của NĐ50 – 28/8/1996… - Thông t số 25 – TC/TCDN ngày 15/5/1997 của Bộ Tài Chính hớng dẫn trình tự, thủ tục, nguyên tắc xử lý tài chính… II Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp– theo pháp luật Việt Nam hiện hành. ** Việc giải quyết tuyên bố phá sản dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản: Thứ nhất: Ưu tiên việc hoà giải tự nguyện. Sau khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Nhà nớc u tiên cho việc hoà giải tự nguyện giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ, nhận bảo lãnh và mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản đợc u tiên giải quyết đến trớc ngày Toà án có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thứ hai: Chỉ có T.A.N.D cấp tỉnh trở lên mới có thẩm quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thẩm quyền sử lý yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo Luật phá sản doanh nghiệp qui định: Chỉ T.A.N.D cấp tỉnh, T.A.N.D.T.C là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thứ ba: Nguyên tắc thi hành: phòng thi hành án thuộc sở T pháp, Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc bộ t pháp là cơ quan có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thứ t: Nguyên tắc kiểm soát và giám sát việc xử lý yêu câu phá sản. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở nên mới có chức năng kiểm soát và giám sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo qui định của pháp luật. ** Thủ tục làm đơn, nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thứ nhất: Thủ tục làm đơn của chủ nợ: Sau 30 ngày kể từ khi gửi giấy đòi nợ cùng hạn mà không đợc doanh nghiệp thanh toán, hoặc doanh nghiệp không trả lơng cho ngời lao động 3 tháng liên tiếp thì các chủ nợ có quyền viết đơn nộp lên toà án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Thứ hai: Thủ tục làm đơn của chủ doanh nghiệp. Trong trờng hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính và để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp không thoát khỏi tình trạng mất khả năng trả nợ đến hạn thì chủ doanh nghiệp hoặc ngời đại diện hợp pháp của họ làm đơn đến Toà án nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp xin tuyên bố phá sản. Thứ ba: Trách nhiệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản của Toà án. Trong quá trình giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án báo cho các chủ nợ hoặc doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Nh vậy, Toà án cha có quyền giải quyết khi cha có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. SV. Vũ Thị Vân Huyền Lớp: Luật Kinh doanh - K42 Đề án môn học PLKDVN Thủ tục phá sản doanh nghiệp … Thứ t: Trách nhiệm thông báo việc thụ lý đơn và yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ. Toà án thụ lý đơn phải ghi vào sổ và cấp cho ngời nộp đơn giấy báo đã nhận đợc đơn và các giấy tờ gửi kèm. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận đơn Toà án thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp mắc nợ biết, có bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận đợc thông báo của Toà án, doanh nghiệp đó phải gửi báo cáo về khả năng thanh toán nợ. Trong trờng hợp thừa nhận mình đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì gửi các tài liệu nh yêu cầu đối với việc doanh nghiệp tự làm đơn xin tuyên bố phá sản. Th năm : Thẩm quyền từ chối mở thủ tục giải quyết đơn. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn. Chánh toà kinh tế cấp tỉnh xem xét đơn và các tài liệu liên quan, nếu xét thấy không đủ căn cứ thì ra quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quyết định này phải nêu rõ lý do, gửi cho ngời làm đơn và các doanh nghiệp mắc nợ biết. Trong thời hạn 15 ngày, sau khi nhận đợc quyết định từ chối giải quyết của Chánh toà kinh tế cấp tỉnh thì các bên có quyền khiếu nại lên Chánh án TAND cấp tỉnh về quyết định này. Trong vòng 7 ngày, kể từ khi nhận đợc đơn khiếu nại, chánh án TAND cấp tỉnh phải ra một trong các quyết định sau: - Giữ nguyên quyết định của Chánh toà kinh tế. - Huỷ quyết định của Chánh toà kinh tế và yêu cầu xem xét lại. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày chánh án TAND cấp tỉnh ra quyết định trên thì Chánh Toà án kinh tế phải ra quyết định mới và gửi cho chánh án cũng nh các đơng sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đợc quyết định khác của Chánh Toà kinh tế nếu các bên còn khiếu nại thì Chánh án TAND cấp tỉnh xem xét. Trong thời hạn 7 ngày
Luận văn liên quan