Thực trạng An sinh xã hội ở Việt Nam

Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam trong thời gian qua với ba trụ cột chủ yếu là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần ổn định xã hội, tạo môi trường cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với mức độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhận thức của người dân nói chung, của các đối tượng chính sách an sinh xã hội nói riêng và của cả hệ thống chính trị đã được nâng cao thì nhiều chính sách xã hội đang trở nên bất cập. Chuyến công tác của đoàn diễn ra trong bối cảnh Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Đề án An sinh xã hội của Việt Nam đến năm 2020 để trình Chính phủ vào cuối năm 2008. Các báo cáo cũng như các kết quả thảo luận tại diễn đàn là những kinh nghiệm quí báu cho Việt Nam. Những nội dung của hệ thống an sinh xã hội được đề cập trong diễn đàn không khác nhiều so với các chính sách hiện hành của Việt Nam nhưng đang có sự khác biệt về cơ chế quản lý, diện bao phủ cũng như mức chi tiêu. Kinh nghiệm được bạn bè quốc tế trao đổi tại diễn đàn cho thấy việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội năng động, phát huy tối đa tiềm năng con người, lấy con người làm trung tâm là định hướng chủ đạo của Việt Nam trong thời gian tới. Với mục tiêu dài hạn là xây dựng một hệ thống an sinh xã hội phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và kế thừa những kinh nghiệm của cộng đồng quốc tế, hội thảo tập trung vào các vấn đề cụ thể sau: - Trên cơ sở báo cáo kết quả từ Diễn đàn An sinh xã hội thế giới lần thứ nhất rút ra những kinh nghiệm cho phát triển hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam. - Thảo luận những định hướng và hoạt động cụ thể để triển khai xây dựng Đề án an sinh xã hội của Việt Nam. - Xem xét những nội dung mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật của UNDP và các tổ chức quốc tế để tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế. - Thảo luận về đề xuất làm thành viên của Hiệp hội An sinh xã hội quốc tế

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6619 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng An sinh xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤc lỤC: I) Lời mở đầu...................................................................2 II) Nội dung......................................................................5 1) Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam ...................5 2) Mục tiêu an sinh xã hội ở Việt Nam.......................10 3) Các giải pháp cứu trợ của Việt Nam......................15 a) Chính sách cứu trợ...........................................16 b) tình hình cứu trợ...............................................18 III) Kết luận....................................................................21 I) LỜI MỞ ĐẦU Muốn hay không, chúng ta phải công nhận một thực tế rằng: đất nước của chúng ta có an ninh, ổn định, nhưng rất thiếu an sinh xó hội. Ở Trung Đông cuộc ngừng bắn mong manh lúc nào cũng có khả năng bị đứt góy bởi tiếng hỏa tiễn và xe bọc thộp; bom nổ ở bất kỳ nơi nào: chợ, công sở, đồn cảnh sát... trên đất Iraq; tại các thành phố lớn châu Âu và Bắc Mỹ cả chục chuyến bay hủy đột ngột, những người dân của các nước giàu có nhất thế giới sống mà nơm nớp lo sợ bị khủng bố... Trong lúc đó tại Việt Nam trước buổi chung kết cuộc thi hoa hậu cả chục ngày, các chuyến bay đi Nha Trang đó hết chỗ. Người nước ngoài đến Việt Nam du lịch nói rằng Việt Nam là nơi an ninh bậc nhất thế giới. Tất cả những điều trên là có thật. Xương máu đổ ra hàng thế kỷ đem lại cho chúng ta những thập niên hũa bỡnh mà mỗi người Việt Nam nâng niu từng ngày một. Cách cư xử của chúng ta với thế giới, nếp sống của chúng ta, truyền thống hũa hiếu trong, ngoài của người Việt... cũng là cội nguồn của cuộc sống bỡnh yờn đó. Đúng, chúng ta đang được sống - một cách xứng đáng - trong một đất nước an ninh. Nhưng từ một góc độ khác, ở ta có bao nỗi bất an trong cuộc sống hằng ngày: Trước cửa nhà tôi ở, trên con đường mới trước khi kịp đặt tên đó xảy ra ba vụ tai nạn chết người. Nhiều triệu người Việt Nam như tôi nơm nớp lo khi con cái lên xe đạp ra khỏi nhà đi học. Ăn uống không an toàn ở bất cứ đâu, cho dù ngoài quán xá, nơi nhà ăn tập thể hay cả ở nhà mỡnh. Bao nhiờu chất độc hại có thể trong thức ăn, kể cả cho trẻ con, bởi ít có nơi nào an toàn thực phẩm bị bỏ bê như ở Việt Nam. Cũn khi trẻ em lớn lờn, bạn phập phồng nỗi lo chỳng bị lụi kộo vào ma tỳy. Khụng cú bom rơi đạn nổ, nhưng đánh lộn, hành hung, đâm chém... thành chuyện không hiếm từ thành thị đến nông thôn. Nam thanh nữ tú bị trấn lột nơi tỡnh tự, người có tuổi bị thóa mạ vô cớ chỗ công cộng. Người Việt Nam có nỗi sợ khi nghĩ đến bệnh viện, bởi dẫu biết các nhân viên y tế rất cố gắng (có lẽ ít ở đâu người làm ngành này lại chịu nhiều khó khăn như ở nước ta), thỡ cũng khụng thể giỳp chỳng ta trỏnh được sự đông nghẹt, chật chội, thiếu thốn, có lúc không thể chạy chữa kịp thời. Khi cần thiết phải đến nơi công sở, chẳng có gỡ đảm bảo bạn không bị đối xử thiếu tôn trọng. Mua phải hàng rởm, bạn khó nghĩ rằng kẻ lừa bạn sớm bị trừng trị. Bạn trả tiền cho nước sạch, rồi bạn bàng hoàng khi chợt hiểu nhiều năm bạn dùng nước nhiễm độc, mà kiện ai thỡ hầu như là chuyện vô nghĩa. Bạn có những mối lo (thường là có cơ sở) chuyện thi cử, tuyển dụng thiếu công bằng, chuyện đồng hồ điện phi mó, chuyện xe mang đi sửa bị "luộc"... Cả trăm thứ khác, không sao kể hết. Bạn không khỏi không thèm cái nền nếp trật tự, phải trái dứt khoát, thưởng phạt, luật lệ nghiêm ngặt, đâu ra đấy ở các nước khác mà bạn có dịp chứng kiến hoặc nghe biết. Muốn hay không, chúng ta phải công nhận một thực tế rằng: đất nước của chúng ta có an ninh, ổn định, nhưng rất thiếu an sinh xó hội. Một phần là do cỏc điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật cũn eo hẹp, nhưng phần khác là do những luộm thuộm của chính chúng ta, do cách quản lý xó hội, ý thức tham gia vào tổ chức đời sống cộng đồng của chúng ta cũn vụ cựng yếu kộm. Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng trải qua bao nhiêu năm chiến tranh, bom đạn, chúng ta hiểu quá rừ cỏi giỏ của sự sống, của hạnh phỳc sống bỡnh yờn. Nhưng rồi lúc hũa bỡnh, chỳng ta lại rất thiếu tụn trọng với chớnh chất lượng sống của mỗi chúng ta? Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng đó cũng là một trong số các nguyên do khiến đa số khách du lịch đến Việt Nam, đều thiện cảm với đất nước, với con người Việt Nam, nhưng chỉ số ít trong số họ quay lại lần nữa? Câu hỏi đặt ra là: Tại sao vào các giai đoạn nguy biến, chúng ta biết cách tổ chức cuộc sống cho cả xó hội một cách chu đáo, chặt chẽ khiến cả thế giới khâm phục, mà trong bối cảnh an ninh, ổn định, lại kém cỏi, vụng về trong việc vun vén cho cuộc sống của chúng ta đỡ những lo âu thắc thỏm? Hỏi đó là trả lời. Cú trỏch nhiệm của Nhà nước, nhưng có trách nhiệm của toàn bộ cộng đồng. Có thể có lập luận: Rồi kinh tế phát triển lên, các vấn đề tự nó được khắc phục theo đà văn minh công nghiệp. Điều này chỉ đúng một nửa. Không ít các ví dụ cho thấy, kinh tế đi lên nhưng các vấn đề xó hội càng gay gắt thờm. Giàu hơn nhưng an sinh kém đi, thỡ chất lượng cuộc sống không tăng, mà là giảm. Việc Việt Nam vừa tụt hạng trong bảng đánh giá chất lượng cuộc sống là điều rất đáng phải lo nghĩ. Bên cạnh niềm vui, niềm tự hào có an ninh chính trị, ổn định xó hội, phải thẳng thắn nhỡn thẳng vào thực trạng an sinh xó hội thấp. Khụng xõy dựng được an sinh xó hội cao trong khi cú ổn định và an ninh chung của đất nước - đó là sự hoang phí và kém cỏi không thể chấp nhận được. Sự kém cỏi của mỗi người, của tất cả chúng ta. II) Nội dung 1) Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói ở Việt Nam nhưng nói chung nghèo đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau: Nguyên nhân lịch sử, khách quan: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài. Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm. Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất. Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao. Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào thành phố. Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước. Nguyên nhân chủ quan: sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4,6 triệu hộ) do các nguyên nhân khác như sau: Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ lệ nghèo tăng lên. Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp. Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng. Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước. Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được thương yêu, chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em có nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc cao. Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nông nghiệp. Hiệu năng quản lý chính phủ thấp. Chính sách xóa đói giảm nghèo Tiếp tục phát triển tư tưởng của Cách mạng tháng Tám [1] Chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng với lời kêu gọi của Ngân hàng thế giới vào đầu thập niên 1990. Hỗ trợ quốc tế cho chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam Đánh giá về chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực.[2] Thành quả xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam trong suốt thập kỷ 1990 đã có tác động quan trọng đến việc xoá đói giảm nghèo và phát triển xã hội[3]. Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ hơn 60% vào năm 1990, xuống 58% vào năm 1993, 37% vào năm 1998, 32% vào năm 2000, 29% vào năm 2002 và còn 18,1% vào năm 2004. Hiện tại (2006) có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo lương thực) theo chuẩn nghèo quốc tế. Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động thương binh và xã hội ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% vào năm 1992, 15,7% năm 1998 xuống xấp xỉ 17% vào năm 2001(2,8 triệu hộ) và 10% năm 2000. Theo chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, đầu năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước, chủ yếu tập trung vào các vùng nông thôn. Các vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỷ lệ nghèo cao hơn con số trung bình này nhiều. Có tới 64% số người nghèo tập trung ở vùng núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền trung. Cũng theo chuẩn nghèo quốc gia năm 2002 còn 12,9% hộ nghèo và tỷ lệ nghèo lương thực ước lượng 10.87% Từ năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30% xuống còn 8,3%. Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và thành phố cơ bản không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%; 24 tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5-10%... Đáng kể trong chương trình Xóa đói giảm nghèo là những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn) đã có những thay đổi biến chuyển rõ nét. Nếu năm 1992, có tới 60-70% số xã nghèo trong diện 135, thì đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 20-25%. Số hộ nghèo của năm 2004 là 1,44 triệu hộ tỷ lệ nghèo là 8,3%, , đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. Như vậy tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 đã giảm khoảng 50% so với năm 2000. Mặc dù vậy, nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo vẫn rất dễ rớt trở lại vào cảnh nghèo đói. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 - 1998, giảm xuống còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998 - 2004. Bình quân trước đó mỗi năm giảm 34 vạn hộ nghèo. Bất bình đẳng trong thu nhập: Giữa các vùng: tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Chênh lệch giũa các nhóm: thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu hướng gia tăng (tỷ số Ghini giảm), trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004; Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn. [4] Sai lệch kết quả thống kê: Căn cứ vào kết quả chính thức điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 và kết quả sơ bộ khảo sát mức sống của hộ gia đình năm 2004, theo chuẩn nghèo quốc gia (2001), Tổng cục Thống kê đã tính toán và ra thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia mới cho năm 2002 và sơ bộ cho năm 2004. Theo đó, tỷ lệ nghèo năm 2002 của Việt Nam là 23%, năm 2004 là 18,1%, năm 2005 là 8,3% . Nhưng với chuẩn mới từ Quyết định số 170/2005/QĐ –TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010, tỉ lệ hộ nghèo của năm 2005 sẽ tăng từ 8,3% như hiện nay (chuẩn 2001) lên đến trên 26% là khoảng 4,6 triệu hộ.[5] 2) Mục tiêu an sinh xã hội ở Việt Nam Các mục tiêu về xã hội và xoá đói giảm nghèo   1.1. Từ 2000 đến 2010 giảm 2/5 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và 3/5 theo chuẩn chương trình mục tiêu quốc gia.  1. Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn nghèo quốc tế. 2. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia. 3. Số hộ thoát khỏi đói nghèo. 4. Chỉ số khoảng cách nghèo. 5. Tỷ lệ tiêu dùng của nhóm 20% số người nghèo nhất so tổng tiêu dùng xã hội.   1.2. Từ 2000 đến 2010, giảm 3/4tỷ lệ nghèo về lương thực thực phẩm theo chuẩn nghèo quốc tế (2100 kcal/ người/ ngày)  1. Tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm so với chuẩn nghèo quốc tế.   Mục tiêu 2: Cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn và người nghèo trong khu vực thành thị.   2..1. Đến 2005 tỷ lệ số xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có đủ hạ tầng cơ sở thiết yếu và 100% vào năm 2010.  1. Tỷ lệ % xã nghèo có đường ô tô đến trung tâm xã. 2. Tỷ lệ % xã nghèo có công trình thủy lợi. 3. Tỷ lệ % xã nghèo có trạm y tế. 4. Tỷ lệ % xã nghèo có trường tiểu học, nhà trẻ, lớp mẫu giáo. 5.Tỷ lệ % xã nghèo có trường trung học cơ sở. 6.Tỷ lệ % xã nghèo có chợ xã/ liên xã. 7. Tỷ lệ % xã nghèo có bưu điện văn hóa xã. 8. Tỷ lệ % xã nghèo có trạm truyền thanh.   2.2.Số xã phường được mở rộng điện lưới quốc gia đến năm 2005  1. Tỷ lệ % xã nghèo có điện.   2.3.Bảo đảm cơ sở hạ tầng thiết yếu nhất là cung cấp nước và vệ sinh cho các khu nghèo trong các thành phố thị xã.  1. Tỷ lệ % hộ nghèo đô thị được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu trong khu vực đô thị.   2.4.Đến năm 2005 tỷ lệ % dân số thành thị và tỷ lệ % dân cư nông thôn được sử dụng nước vệ sinh, tỷ lệ dân cư nông thôn đến năm 2010 được sử dụng nước hợp vệ sinh  1. Tỷ lệ % hộ nghèo được dùng nước sạch. 2. Tỷ lệ % xã nghèo và các quận huyện có hệ thống nước sinh hoạt đảm bảo vệ sinh.   Mục tiêu 3: Tạo việc làm   3.1. Số việc làm được giải quyết thêm hàng năm  1. Tổng số việc làm mới hàng năm.   3.2. Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới.  1. Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới . 2. Tổng số việc làm mới trong khu vực ngoài quốc doanh. 3. Tỷ lệ việc làm mới trong khu vực ngoài quốc doanh. 4. Tỷ lệ hộ nghèo được tiếp cận tín dụng vay vốn tạo việc làm.   3.3. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt ? % năm 2005 và ? % năm 2010.  1. Tổng số lao động được đào tạo hàng năm. 2. Tỷ lệ lao động được đào tạo so với tổng số lao động.   3.4. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao dộng trong độ tuồi ở nông thôn năm 2005 và 2010.  1. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi ở nông thôn.   3.5. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị năm 2005 và 2010.  1. Tỷ lệ thất nghiệp lao động trong độ tuổi khu vực thành thị.   Mục tiêu 4: Phổ cập giáo dục   4.1. Tỷ lệ % học sinh đi học tiểu học và trung học cơ sở đến 2005 và 2010.  1. Tỷ lệ học sinh đi học tiểu học đúng tuổi . 2. Tỷ lệ học sinh đi học trung học cơ sở đúng tuổi. 3.Tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo đúng độ tuổi 3-5. 4. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học. 5. Tỷ lệ phổ cập trung học cơ sở. 6. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15-24. 7. Tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học.   4.2.Phấn đấu đến 2010 nâng cao hơn chất lượng giáo dục và nâng tỷ lệ học hai buổi ở cấp tiểu học.  1. Tỷ lệ trẻ em được học 2 buổi cấp tiểu học.   4.3. Đến 2005 xóa bỏ sự cách biệt về tỷ lệ nam, nữ trong các cấp tiểu học và trung học, đến 2010 thu hẹp chênh lệch tỷ lệ đi học giữa các dân tộc ở cấp tiểu học và trung học cơ sở.  1. Tỷ lệ học sinh phân theo nam, nữ ở cấp tiểu học, trung học và đại học. 2. Tỷ lệ biết chữ của nữ và nam ở độ tuổi 15-24. 3. Tỷ lệ đi học của trẻ em dân tộc ở cấp tiểu học và trung học so với mức chung toàn cầu 2010.   Mục tiêu 5 : Giảm tỷ lệ sinh, giảm tỷ lệ tử vong trẻ em và suy dinh dưỡng trẻ em   5.1. Duy trì vững chắc xu thế giảm tỷ lệ sinh để đạt mức sinh thay thế bình quân trong cả nước vào năm 2005; vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo vào năm 2010.  1. Tỷ lệ tăng dân số. 2. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai.   5.2. Đến năm 2005, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ 1 tuổi xuống dưới….% và đến năm 2010 còn dưới …%o. Giảm tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi xuống … %o vào năm 2005 và dưới 32%o vào năm 2010.  1.Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. 2. Tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi.     5.3. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi xuống…% năm 2005 và dưới …% vào năm 2010.  1. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.   5.4. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ sinh thiếu cân ( dưới 2500 gram ) xuống còn …% năm 2005 và … % năm 2010.  1. Tỷ lệ trẻ sinh thiếu cân ( dưới 2500 gram ).     6.1. Đến năm 2005, giảm tỷ suất chết mẹ liên quan đến thai sản xuống 80/ 100.000 trẻ đẻ sống trong toàn quốc ( 100/ 100.000 trẻ đẻ sống ở miền núi )  1. Tỷ lệ chết mẹ liên quan đến sinh sản 2. Tỷ lệ sản phụ được chăm sóc tại các cơ sở y tế     6.2. Duy trì kết quả thanh toán bệnh bại liệt; khống chế đến mức thấp nhất tỷ lệ mắc và chết của các bệnh tả, thương hàn, sốt xuất huyết, sốt rét, dịch hạch…  1. Tỷ lệ tr
Luận văn liên quan